KINH
Diệu Pháp Liên Hoa
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dịch từ Hoa văn sang tiếng Việt
Mục Lục:
A.- Phần Tổng Hiện
| |
C.- Phần Thị Phật-Tri-Kiến
| |
D.- Phần Ngộ-Phật Tri-Kiến
| |
E.- Phần Nhập Phật-Tri-Kiến
| |
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích.
...........
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ.
(08-10-1989)
THÍCH TRÍ TịNH
Cẩn Chí
|
Kinh Pháp Hoa là bộ kinh đại thừa gồm bảy quyển tổng cộng là hai mươi tám phẩm, suốt hơn sáu vạn lời, nghĩa lý sâu xa, kinh văn rộng lớn, chứa đựng tâm nguyện và phương tiện huyền diệu ngời sáng của Phật và Bồ Tát.
Tâm nguyện của Phật là tâm nguyện khắp độ chúng sanh đạt thành đạo quả giác ngộ. Bởi thế nên ngay quyển đầu của kinh về Phẩm Phương Tiện đã nói: "Phật ra đời là vì một nhơn duyên lớn duy nhất là khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật". Thế nghĩa là Phật rộng mở phương tiện pháp môn, chỉ bày chơn tâm Phật tánh để chúng sanh tin tưởng khả năng thánh thiện của mình mà tiến tu đến Phật quả.
Phương tiện của Phật là phương tiện huyền diệu được sanh trưởng và dinh dưỡng bởi trí tuệ từ bi hỷ xả lợi tha có khả năng đưa tất cả chúng sanh đồng chứng nhất thừa Phật quả. Ðức Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành, nếu chúng sanh tinh tấn nỗ lực tu hành thì cũng sẽ thành Phật như ta vậy. Nhưng chúng sanh đắm chìm trong ngũ dục lạc, nên tạo nhiều tội lỗi để rồi hiện thành căn tánh cao thấp, nghiệp duyên nặng nhẹ khác nhau. Ðức Phật lại phải từ đó mà lập ra có muôn ngàn phương tiện để hóa độ. Nghĩa là từ nhứt thượng thừa mà đức Phật đã phải phương tiện huyền khai làm thành ba thừa để rồi sau đó, khi căn tánh chúng sanh thuần thục ngài lại dần dần đưa lên nhứt thừa Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Hai mươi tám phẩm Kinh Pháp Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và Ðại Bồ Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh, từ tam thừa Thinh Văn Duyên Giác và Bồ Tát đến quả vị nhứt thừa vô thượng Phật quả.
Nội dung kinh Pháp Hoa cho ta thấy không phương tiện độ sanh nào mà không có, không cửa pháp môn giải thoát rốt ráo nào mà không mở, không cảnh giới Phật nào mầu nhiệm thiện duyên thâm mật với chúng sanh cõi ta bà này mà không ảnh hiện, không hạnh nguyện giáo hóa độ sanh nào của Phật và Bồ Tát mà không thể đạt ba la mật. Thật là một bộ kinh khế hợp cho đủ mọi trình độ căn tánh nghiệp duyên của chúng sanh. Vì thế xưa nay kinh Pháp Hoa đã được không biết bao nhà Phật học huyên bác chú thích sớ giải làm cho kinh Pháp Hoa rạng rỡ từ ngàn năm này đến ngàn năm khác và phổ cập nhân gian. Ðến nỗi nghĩa lý của kinh Pháp Hoa quá ư vi diệu tuyệt vời, kinh bản được đời đời ấn hành phổ biến uy thế tạo thành một tôn phái với danh xưng là Pháp Hoa Tôn hay Thiên Thai Tôn, một tôn phái có ảnh hưởng lớn ở Nhật Bản và Trung Hoa do Trí Giả Ðại Sư thành lập.
Trong thời thế sự cuồng quây, đạo tâm ngày một suy vi, phong hóa niềm tin lay chuyển đến tận gốc rễ như thời này đây, để cho mọi người còn chút phước duyên đang bềnh bồng trên bể đời có thuyền nương tựa, có đất phì nhiêu của bến bờ để gieo giống Bồ Ðề, nên Phật Học Viện Quốc Tế nguyện in lại kinh Pháp Hoa này ngõ hầu làm thuyền bát nhã, làm ruộng phước phì nhiêu, làm hải đăng và bến đổ cho khắp cả mọi kiếp thuyền đời trở thành những thiện hữu Bồ Ðề kết duyên cùng Phật đạo Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Khắp nguyện mười phương bạn lành gần xa mở rộng lòng ra phát tâm Bồ Ðề thọ trì và ấn tống kinh Pháp Hoa này để tạo cơ hội sớm ngộ nhập tri kiến Phật, ngõ hầu thăng hoa đời sống đạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Phật lịch 2530, Vía Phật A Di Ðà - 1986 Bính Dần
Thích Ðức Niệm
(Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám-hối, sám-hối tức là làm cho 3 nghiệp thanh tịnh)
Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Chư Phật. (1 lạy)
Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Tôn Pháp. (1 lạy)
Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt-thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
(Quì, tay cầm hương cúng-dường phát nguyện)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng-dường tất cả Phật.
Tôn Pháp, các Bồ-Tát,
Vô biên chúng Thanh-văn
Và cả thảy Thánh-hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng-sanh
Ðều phát lòng Bồ-đề,
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
(cầm hương lạy 1 lạy)
(Ðứng chắp tay xướng)
Sắc thân Như-Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ
Sắc thân Phật vô-tận
Trí-tuệ Phật cũng thế,
Tất cả Pháp thường-trụ
Cho nên con về nương,
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần-sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch ba nghiệp
Qui-y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng-sanh
Ðồng sanh nước An-Lạc.
Án phạ nhựt ra vật. (7 lần)
Chí Tâm Ðảnh Lễ
(Câu này thông cả 9 câu dưới, đều xướng ở đầu câu)
Thường-tịch-quang tịnh độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Pháp-thân mầu thanh-tịnh
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Thật báo trang nghiêm độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân tướng hải vi-trần
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Phương-tiện thánh cư độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân trang-nghiêm giải-thoát
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương Tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân căn giới đại-thừa
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương Tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân hóa đến mười phương
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Giáo hạnh lý ba kinh
Tột nói bày y chánh
Khắp pháp-giới Tôn Pháp (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Quán-thế-Âm Bồ-tát
Thân tử-kim muôn ức
Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Ðại Thế-Chí Bồ-tát
Thân trí sáng vô-biên
Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)
Cõi An-Lạc phương tây
Thanh-tịnh đại-hải-chúng
Thân hai nghiêm: Phước, trí
Khắp pháp-giới Thánh-chúng (1 lạy)
( Ðứng chắp tay nguyện: )
' Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh ' Trong pháp-giới, đều nguyện
dứt trừ ba chướng(1)' nên qui mạng (2) sám-hối(3)'
(1 lạy quỳ chắp tay sám hối)
Chí Tâm Sám Hối:
Ðệ tử... và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián (5) và tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không kể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chiếu soi tất cả Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy, chằng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhân duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6) trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. - Kinh rằng: 'Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-Tịch-Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh, vì thế trong trí Bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ ăn năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà pháp lồ (7) sám hối làm cho đệ tử và pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-Ðộ khắp với chúng-sinh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn-lành của đệ tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm chung, thân an niệm chánh, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật-đạo.
Ðệ-tử sám-hối phát nguyện rồi qui mạng đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-Bảo (1 lạy)
( lạy xong tiếp Nghi Thức tụng kinh )
Thích Nghĩa Sám Pháp
(1) Phiền não, nghiệp nhân, quả báo ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi: 'Ba món
chướng.'
(2) Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng chính là nghĩa của hai chữ 'Nam-mô'.
(3) Nói đủ là Sám-ma hối quá. 'Sám ma' là tiếng Phạm, nghĩa là 'hối quá', tức là ăn năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.
(4) Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý: sáu căn, và ba nghiệp: thân, khẩu, ý.
(5) Giết cha, giết mẹ, giết thánh nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa hiệp Tăng, gọi là năm tội
Nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô-gián nên gọi là tội Vô-gián - Ngục Vô-gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.
(6) A-tu-la, Súc-sanh, Ngạ quỉ, Ðịa ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.
(7) Bày lộ tội lỗi ra trước Chúng-Nhơn không chút giấu che thời gọi là phát lồ, trái với phú tàng (che giấu). Có phát lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hôi).
________________________
Nghi Thức Trì Tụng
----------------
Bài Tán Lư Hương
Lò hương vừa nhen nhúm
Pháp-giới đã được xông
Các Phật trong hải hội đều xa hay
Theo chỗ kết mây lành
Lòng thành mới ân cần
Các Phật hiện toàn thân.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát Ma-ha-tát (3lần)
Chân Ngôn Tịnh Pháp Giới
Án lam ( 7 lần )
( Trì chú này thì thân tâm, cảnh vật đều thanh tịnh )
Chân Ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp
Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị ta bà ha. (7 lần)
( Trì chú này thì hơi miệng trong sạch )
Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạt thuật độ hám (3 lần)
(Trì chú này thì hoa hương cùng tiếng tụng niệm sẽ khắp cúng-dường cả mười phương)
Văn Phát Nguyện
Nam-mô Thập-phương Thường-trụ Tam-bảo (3 lần)
Cúi lạy đấng Tam-giới Tôn,
Qui mạng cùng mười phương Phật
Tôi nay phát nguyện rộng
Thọ-trì kinh Pháp-Hoa
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ ( súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục )
Nếu có kẻ thấy nghe
Ðều phát lòng Bồ-đề
Hết một báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
Bài Khai Kinh
Pháp vi-diệu rất sâu vô-lượng
Trăn nghìn muôn ức khó gặp
Tôi nay nghe thấy được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như-Lai.
Bài Khen Ngợi Kinh
Hơn sáu muôn lời, thành bảy cuốn
Rộng chứa đựng vô-biên nghĩa mầu
Trong cổ nước cam-lộ rịn nhuần
Trong miệng chất đề-hồ nhỏ mát
Bên răng ngọc trắng tuôn xá-lợi
Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang
Dầu cho tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu-Pháp vài ba hàng.
Nam-mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát. ( 3 lần )
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Quyển Thứ Nhất
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch.
Phẩm 'Tựa' Thứ Nhất
1.- Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật (2) ở trong núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người câu-hội. Các vị đó đều là bực A-La-Hán, các lậu (3) đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong (4) dứt sự ràng rịt trong các cõi (5) tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-Nhã Kiều-Trần-Như, Ma-Ha-Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Ðề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Ðại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nâu-Lâu-Ðà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm, Ba-Ðề, Ly-Bà-Ða Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Ðà Tôn-Ðà-La Nan-Ðà, Phú-Lâu-Na Di-Ða-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Ðề, A-Nan, La-Hầu-La v.v.. đó là những vị đại A-La-Hán hàng tri-thức của chúng.
Lại có bực hữu-học và vô-học (6) hai nghìn người.
Bà Tỷ-khiêu-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Ðề cùng với quyến thuộc sáu nghìn người câu-hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỷ-khiêu-ni Gia-Du-Ðà-La cùng với quyến thuộc câu-hội.
2.- Bực đại Bồ-tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo vô thượng chính-đẳng chính-giác (7), đều chứng được pháp đà-la-ni (8) nhạo-thuyết biện tài (9) chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng-dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công-đức.
Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí-tuệ của Phật thông đạt đại-trí đến nơi bờ kia (10), danh đồn khắp vô-lượng thế-giới có thể độ vô số trăm nghìn chúng-sanh.
Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát. Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðắc-Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-tát, Bất-Hưu Tức Bồ-tát, Bửu-Chưởng Bồ-tát, Dược-Vương Bồ-tát, Dõng-thí Bồ-tát. Bửu-Nguyệt Bồ-tát, Nguyệt-Quang Bồ-tát, Mãn-Nguyệt Bồ-tát, Ðại-Lực Bồ-tát, Vô-Lượng-Lực Bồ-tát, Việt-Tam-Giới Bồ-tát, Bạt-Ðà Bà-La Bồ-tát, Di-Lặc Bồ-tát, Bửu-Tích Bồ-tát, Ðạo-Sư Bồ-tát v.v... các vị đại Bồ-tát như thế tám muôn người câu hội.
3.- Lúc bấy giờ, Thích-Ðề Hoàn-Nhơn (11) cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên-tử câu hội.
Lại có Minh-Nguyệt thiên tử, Phổ-Hương thiên tử, Bửu-Quang thiên-tử, bốn vị đại Thiên-Vương cùng với quyến-thuộc một muôn thiên-tử câu hội.
Tự-tại Thiên-tử, đại tự-tại Thiên-tử cùng với quyến thuộc ba vạn Thiên-tử câu hội.
Chủ cõi Ta-Bà: Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Ðại-Phạm, Quang-Minh Ðại-Phạm v.v...cùng với quyến thuộc một muôn hai nghìn vị thiên-tử câu hội.
Có tám vị Long-Vương: Nan-Ðà Long-Vương, Bạt-Nan-Ðà Long-Vương, Sa-Dà-La Long-Vương, Hòa-Tu-Cát Long-Vương, Ðức-Xoa-Ca Long-Vương, A Na-Bà-Ðạt-Ða Long-Vương, Ma-Na-Tư Long-Vương, Ưu-Bát-La Long-Vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Khẩn-Na-La vương, Pháp-Khẩn-Na-La vương, Diệu-Pháp Khẩn-Na-La vương, Ðại-Pháp Khẩn-Na-La vương, Trì-Pháp Khẩn-Na-La vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị Càn-Thát-Bà vương. Nhạc-âm Càn-Thát-Bà vương, Mỹ Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-âm Càn-Thát-Bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị A-tu-la vương: Bà-Trĩ A-tu-la vương, Dà-La-Khiên-Ðà A-tu-la vương, Tỳ-Ma-Chất-Ða-La A-tu-la vương, La-Hầu A-tu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị Ca-lâu-la vương: Ðại-Uy-Ðức Ca-lâu-la vương, Ðại-Thân Ca-lâu-la vương, Ðại-Mãn Ca-lâu-la vương, Như-Ý Ca-lâu-la vương, đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội.
Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Ðề-Hi, cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
4.- Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn, hàng tứ-chúng vây quanh cúng-dàng cung kính ngợi-khen tôn trọng, vì các vị Bồ-tát mà nói kinh đại-thừa tên là: 'Vô-Lượng-Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật sở hộ-niệm'.
Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chính-định 'Vô-lượng nghĩa xứ', thân và tâm của Phật đều không lay động.
Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động (12).
Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng: Tỳ-khiêu, Tỳ-khiêu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà (13), A-tu-la (14), Ca-lâu-la (15), Khẩn-na-la (16), Ma-hầu-la-dà (17), nhơn, phi-nhơn và các vị tiểu-vương cùng Chuyển-luân thánh vương, các đại-chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.
5.- Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào-quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Ðông, dưới thời chiếu đến địa-ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-Cứu-Cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng-sanh (18), ở các cõi kia.
Lại thấy các đức Phật hiện-tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo.
Lại thấy các vị đại Bồ-tát dùng các món nhơn-duyên, các lòng tín giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.
6.- Khi ấy, ngài Di-Lặc Bồ-tát nghĩ rằng: 'Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, vì nhơn duyên gì mà có điềm lành này'.
Nay đức Phật đương nhập chính-định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?'
Ngài lại nghĩ: 'Ông Pháp-Vương-tử (19) Văn-Thù Sư-Lợi này đã từng gần gũi cúng dàng vô-lượng các đức Phật đời quá khứ chắc đã thấy tướng hi-hữu này, ta nay nên hỏi ông'.
Lúc đó, hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ (20) và các trời, rồng, quỉ, thần v.v.. đều nghĩ rằng: 'Tướng thần-thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?'
7.- Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, ngài lại xét tâm niệm của bốn-chúng: Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và của cả chúng hội trời rồng quỉ thần v.v.. mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Vì nhơn duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Ðông, đều thấy cõi nước trang-nghiêm của các đức Phật?'
Khi đó, ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:
8.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Ðức Ðạo-Sư cớ chi
Lông trắng giữa chặn mày
Phóng ánh-sáng khắp soi?
Trời mưa hoa Mạn-đà
Cùng hoa Mạn-thù-Sa,
Gió thơm mùi chiên-đàn
Vui đẹp lòng đại chúng
Vì nhơn duyên như vậy
Cõi đất đều nghiêm tịnh
Mà trong thế giới này
Sáu điệu vang động lên
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thảy đều rất vui mừng
Thân cùng ý thơ thới
Ðược việc chưa từng có.
9.- Ánh sáng giữa chặn mày
Soi suốt thẳng phương Ðông
Một muôn tám nghìn cõi
Ðều ánh như sắc vàng.
Từ địa ngục A-Tỳ
Trên đến trời hữu đảnh
Trong các thế giới đó
Cả sáu đạo chúng sanh
Sống chết của kia đến
Nghiệp duyên lành cùng dữ
Thụ báo có tốt xấu
Tại đây đều thấy rõ.
10.- Lại thấy các đức Phật
Ðấng Thánh-Chúa Sư-Tử
Diễn nói các kinh điển
Nhiệm mầu bực thứ nhất.
Tiếng của ngài thanh-tịnh
Giọng nói ra êm dịu
Dạy bảo các Bồ-tát
Vô-số ức muôn người
Tiếng phạm-âm thâm diệu
Khiến người đều ưa nghe.
Các Phật ở cõi mình
Mà giảng nói chính pháp
Dùng nhiều món nhơn-duyên
Cùng vô-lượng tỉ-dụ
Ðể soi rõ Phật Pháp
Mà khai ngộ chúng sanh.
Nếu có người bị khổ
Nhàm lìa già, bệnh, chết,
Phật vì nói Niết-Bàn
Ðể dứt các ngằn khổ
Nếu là người có phước
Ðã từng cúng-dàng Phật
Chí cầu pháp thù-thắng
Vì nói hạnh Duyên-Giác
Nếu lại có Phật-tử
Tu-tập các công hạnh
Ðể cầu tuệ vô thượng
Phật vì nói tịnh-đạo.
11.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe dường ấy đó
Và nghìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra:
12.- Tôi thấy ở cõi kia
Có hằng-sa Bồ-tát
Dùng các món nhơn-duyên
Mà cầu chứng Phật đạo.
Hoặc có vị bố-thí
Vàng, bạc, ngọc, san-hô,
Chơn châu, ngọc như-ý,
Ngọc xa-cừ mã-não,
Kim-cương các trân-bửu
Cùng tôi tớ, xe cộ
Kiệu, cán chưng châu báu
Vui-vẻ đem bố-thí
Hồi-hướng về Phật-đạo
Nguyện được chứng thừa ấy
Bực nhất của ba cõi
Các Phật hằng khen ngợi.
Hoặc có vị Bồ-tát
Xe tứ-mã xe báu
Bao lơn che tàn đẹp
Trau-tria dùng bố-thí.
Lại thấy có Bồ-tát
Bố-thí cả vợ con
Thân thịt cùng tay chân
Ðể cầu vô-thượng đạo.
Lại thấy có Bồ-tát
Ðầu, mắt và thân thể
Ðều ưa vui thí cho
Ðể cầu trí-tuệ Phật
13.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Ta thấy các quốc-vương
Qua đến chỗ của Phật
Thưa hỏi đạo vô-thượng
Bèn bỏ nước vui vẻ
Cung-điện cả thần-thiếp
Cạo sạch râu lẫn tóc
Mà mặc y Pháp phục.
Hoặc lại thấy Bồ-tát
Mà hiện làm Tỷ-khiêu
Một mình ở vắng vẻ
Ưa vui tụng kinh điển
Cũng thấy có Bồ-tát
Dõng mãnh và tinh tấn
Vào ở nơi thâm sơn
Suy xét mối Phật-đạo
Và thấy bực ly-dục
Thường ở chỗ không nhàn
Sâu tu các thuyền-định
Ðược năm món thần thông
Và thấy vị Bồ-tát
Chắp tay trụ thuyền-định
Dùng nghìn muôn bài kệ
Khen ngợi các Pháp-Vương
Lại thấy có Bồ-tát
Trí sâu chí bền chắc
Hay hỏi các đức Phật
Nghe rồi đều thụ trì.
Lại thấy hàng Phật-tử
Ðịnh-tuệ trọn đầy đủ
Dùng vô-lượng tỉ-dụ
Vì chúng mà giảng pháp
Vui ưa nói các pháp
Dạy bảo các Bồ-tát
Phá dẹp chúng binh ma
Mà đánh rền trống pháp
Cùng thấy vị Bồ-tát
Vắng bặt yên lặng ngồi
Trời, rồng đều cung-kính
Chẳng lấy đó làm mừng,
Và thấy có Bồ-tát
Ở rừng phóng hào-quang
Cứu khổ chốn Ðịa-ngục
Khiến đều vào Phật-đạo.
Lại thấy hàng Phật-tử
Chưa từng có ngủ nghỉ
Kinh-hành ở trong rừng
Siêng năng cầu Phật-đạo
Cũng thấy đủ giới-đức
Uy-nghi không thiếu sót
Lòng sạch như bửu-châu
Ðể cầu chứng Phật-Ðạo.
Và thấy hàng Phật-tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ Tăng-thượng-mạn
Mắng rủa cùng đánh đập
Thảy đều hay nhẫn được
Ðể cầu chứng Phật-đạo
Lại thấy có Bồ-tát
Xa rời sự chơi cười
Và quyến-thuộc ngu si
Ưa gần-gũi người trí
Chuyên tâm trừ loạn động
Nhiếp niệm ở núi rừng
Trải ức nghìn muôn năm
Ðể cầu được Phật-đạo.
14.- Lại thấy vị Bồ-tát
Ðồ ăn uống ngọt ngon
Cùng trăm món thuốc thang
Ðem cúng Phật và Tăng,
Áo tốt đồ thượng-phục
Giá đáng đến nghìn muôn
Hoặc là vô-giá y
Dùng nghìn muôn ức thứ
Nhà báu bằng Chiên-đàn
Các giường nằm tốt đẹp
Ðể cúng Phật cùng Tăng
Rừng vườn rất thanh-tịnh
Bông trái đều sum-sê
Suối chảy cùng ao tắm
Cúng cho Phật và Tăng,
Cúng thí như thế đó
Các đồ cúng tốt đẹp
Vui vẻ không hề nhàm
Ðể cầu đạo vô-thượng.
15.- Lại có vị Bồ-tát
Giảng nói pháp tịch-diệt
Dùng các lời dạy dỗ
Dạy vô-số chúng-sanh
Hoặc thấy vị Bồ-tát
Quán sát các pháp tịnh
Ðều không có hai tướng
Cũng như khoảng hư không
Lại thấy hàng Phật-tử
Tâm không chỗ mê đắm
Dùng món diệu-tuệ này
Mà cầu đạo vô-thượng.
16.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Lại có vị Bồ-tát
Sau khi Phật diệt-độ
Cúng dàng Xá-Lợi-Phật.
Lại thấy hàng Phật-tử
Xây dựng các tháp miếu
Nhiều vô-số hằng-sa
Nghiêm sức khắp cõi nước.
Bửu tháp rất cao đẹp
Ðều năm nghìn do-tuần.
Bề ngang rộng xứng nhau
Ðều hai nghìn do-tuần.
Trong mỗi mỗi tháp miếu
Ðều có nghìn tràng phan
Màn châu xen thả xuống
Tiếng linh báu hòa reo
Các vị Trời, rồng, thần,
Người cùng với phi-nhơn
Hương, hoa, cùng kỹ-nhạc
Thường đem đến cúng-dàng
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Các hàng Phật-tử kia
Vì cúng-dàng xá-lợi
Nên trang-sức tháp miếu,
Cõi quốc-giới tự-nhiên
Thù đặc rất tốt-đẹp
Như cây Thiên-thụ-vương
Hoa kia đang xòe nở
17.- Phật phóng một luồng sáng
Ta cùng cả chúng-hội
Thấy nơi cõi nước này
Các thứ rất tốt đẹp
Thần-lực của chư Phật
Trí-tuệ đều hi-hữu
Phóng một luồng tịnh-quang
Soi khắp vô-lượng cõi
Chúng ta thấy việc này
Ðược điều chưa từng có.
18.- Xin Phật-tử Văn-Thù
Giải-quyết lòng chúng nghi
Bốn chúng đều mong ngóng
Nhìn ngài và nhìn ta
Ðức Thế-Tôn cớ chi
Phóng ánh quang-minh này?
Phật-tử phải thời đáp
Quyết nghi cho chúng mừng
Có những lợi ích gì
Ðức Phật phóng quang này?
Khi Phật ngồi đạo-tràng
Chứng được pháp thâm-diệu
Vì muốn nói Pháp đó
Hay là sẽ thọ-ký?
Hiện bày các cõi Phật
Các báu sạch trang-nghiêm
Cùng thấy các đức Phật
Ðây không phải cớ nhỏ
Ngài Văn-Thù nên biết
Bốn-chúng và Long, Thần
Nhìn xem xét ngài đó
Mong sẽ nói những gì?
19.- Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Ðại Bồ-tát cùng các vị Ðại-Sĩ: 'Các Thiện-nam-tử! Như chỗ ta xét nghĩ thời nay đức Thế-Tôn muốn nói Pháp lớn, mưa pháp-vũ lớn, thổi pháp-loa lớn, đánh pháp-cổ lớn và diễn pháp-nghĩa lớn.
Các thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá-khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào-quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào-quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào-quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng-sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này.
20.- Các thiện-nam-tử! Như vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ (21) kiếp về trước. Bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật-Nguyệt Ðăng-Minh Như-Lai, Ứng-Cúng, Chính-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải, Vô-Thượng-Sĩ, Ðiều-Ngự Trượng-Phu, Thiên-Nhơn-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói chính pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý rất xâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm-hạnh thanh bạch.
Phật, vì người cầu đạo Thanh-Văn, nói pháp tứ-đế (22) thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên-Giác, nói pháp mười hai nhơn duyên (23), Vì hàng Bồ-tát nói sáu pháp Ba-la-mật (24) làm cho chứng được quả Vô-thượng chính-đẳng chính-giác thành bậc nhất-thiết chủng-trí.(25)
Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh, lại cùng đồng cùng một họ, họ Phả-La-Ðọa.
Di-Lặc nên biết! Ðức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành.
Ðức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-gia có tám vị vương tử: Người thứ nhất tên Hữu-Ý, thứ hai tên Thiện-Ý, thứ ba tên Vô-Lượng-Ý, thứ tư tên Bửu-Ý, thứ năm tên Tăng-Ý, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ý, thứ bảy Hưởng-Ý, thứ tám tên Pháp-Ý.
Tám vị vương tử đó có uy đức tự tại đều lãnh trị bốn châu thiên hạ (26) . Nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất-gia theo, phát tâm đại thừa, thường tu hạnh thanh-tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành.
21.- Ðức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh lúc đó nói kinh đại thừa tên 'Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm'. Nói kinh đó rồi Phật liền ở trong đại-chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh giới chánh-định 'Vô-Lượng nghĩa-xứ', thân và tâm chẳng động.
22.- Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại-chúng. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động.
Lúc đó trong hội, hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự nam, Cận-sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-luân thánh-vương v.v... các đại-chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.
23.- Bấy giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân mày phóng ra luồng ánh-sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cõi Phật đây.
Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-tát ấy thấy ánh-sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh-sáng này.
Khi ấy, có vị Bồ-tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử.
24.- Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh từ trong chính-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-tát nói kinh đại-thừa tên 'Diệu-Pháp-Liên-Hoa Giáo-Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm', trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
25.- Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
26.- Ðức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng ma, phạm sa-môn, bà-la-môn, và trời, người, a-tu-la mà tuyên rằng: 'Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết-bàn'.
Khi đó có vị Bồ-tát, tên Ðức-Tạng đức Phật Nhật-Nguyệt Ðăng-Minh liền thọ-ký (12) cho, bảo các Tỷ-khiêu rằng 'Ông Ðức-Tạng Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, Chính-đẳng Chính-giác'.
Ðức Phật thọ-ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.
27.- Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-tát trì kinh 'Diệu-Pháp Liên-Hoa' trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.
28.- Tám người con của Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô-thượng Chính-dẳng Chính-giác. Các vị Vương-tử đó cúng-dàng vô-lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt ráo sau hết, hiệu là Nhiên-Ðăng.
29.- Trong hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên: Cầu-Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh. Người này cũng do có trồng các nhân-duyên căn lành nên được gặp vô-lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật mà cúng-dàng cung-kính tôn trọng khen ngợi.
30.- Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đây. Còn Cầu-Danh Bồ-tát là ngài đấy.
Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh đại-thừa tên: 'Diệu-Pháp Liên-Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm'.
Bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát ở trong đại-chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
31.- Ta nhớ thuở quá-khứ
Vô-lượng vô-số kiếp
Có Phật Nhơn Trung-tôn
Hiệu Nhật-Nguyệt Ðăng-Minh
Ðức Thế-Tôn nói pháp
Ðộ vô-lượng chúng-sanh
Vô số ức Bồ-tát
Khiến vào trí-tuệ Phật.
32.- Khi Phật chưa xuất-gia
có sanh tám vương-tử
Thấy Ðại-Thánh xuất-gia
Cũng theo tu phạm-hạnh
33.- Phật nói kinh Ðại-Thừa
Tên là 'Vô-Lượng-Nghĩa'
Ở trong hàng đại-chúng
Mà vì rộng tỏ bày.
Phật nói kinh ấy rồi
Liền ở trong pháp-tòa
Xếp bằng nhập chính-định
Tên 'Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ'
Trời rưới hoa Mạn-đà
Trống trời tự-nhiên vang
Các Trời, rồng, quỉ, thần
Cúng-dàng đấng Nhơn-Tôn,
Tất cả các cõi Phật
Tức thời vang động lớn,
34.- Phật phóng sáng giữa mày
Hiện các việc hi-hữu
Ánh-sáng chiếu phương-đông
Muôn tám nghìn cõi Phật
Bày sanh-tử nghiệp báo
Của tất cả chúng-sanh
Lại thấy các cõi Phật
Dùng các báu trang-nghiêm
Màu lưu-ly pha-lê
Ðây bởi Phật-quang soi.
35.- Lại thấy những Trời, người
Rồng, thần, chúng Dạ-Xoa
Càn-thát, Khẩn-na-la
Ðều cúng-dàng Phật mình
36.- Lại thấy các Như-Lai
Tự-nhiên thành Phật-đạo,
Màu thân như núi vàng
Ðoan nghiêm rất đẹp mầu
Như trong lưu-ly sạch
Hiện ra tượng chơn kim
Thế-Tôn trong đại-chúng
Dạy nói nghĩa thâm diệu.
37.- Mỗi mỗi các cõi Phật
Chúng Thanh-Văn vô-số,
Nhơn Phật-quang soi sáng
Ðều thấy đại-chúng kia.
Hoặc có các Tỷ-khiêu
Ở tại trong núi rừng
Tinh-tấn giữ tịnh-giới
Dường như gìn châu sáng
38.- Lại thấy các Bồ-tát
Bố-thí nhẫn-nhục thảy
Số đông như hằng-sa (28)
Ðây bởi sáng Phật soi.
Lại thấy hàng Bồ-tát
Sâu vào các thuyền-định
Thân tâm lặng chẳng động
Ðể cầu đạo vô-thượng.
Lại thấy các Bồ-tát
Rõ tướng pháp tịch-diệt
Ðều ở tại nước mình
Nói pháp cầu Phật-đạo.
39.- Bấy giờ bốn bộ chúng
Thấy Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng
Hiện sức thần-thông lớn
Tâm kia đều vui mừng
Mỗi người tự hỏi nhau
Việc này nhơn-duyên gì?
40.- Ðấng của Trời người thờ
Vừa từ chính-định dậy
Khen Diệu-Quang Bồ-tát
Ông là mắt của đời
Mọi người đều tin về
Hay vưng giữ tạng pháp
Như pháp của ta nói
Chỉ ông chứng biết được
Ðức Phật đã ngợi khen
Cho Diệu-Quang vui mừng
Liền nói kinh Pháp-Hoa
Trải sáu mươi tiểu kiếp
Chẳng rời chỗ ngồi ấy
Ngài Diệu-Quang Pháp-sư
Trọn đều hay thụ-trì
Pháp thượng diệu của Phật.
41.- Phật nói kinh Pháp-Hoa
Cho chúng vui mừng rồi
Liền chính trong ngày đó
Bảo hàng chúng trời, người
Các pháp 'nghĩa thật tướng'
Ðã vì các ông nói
Nay ta giữa đêm này
Sẽ vào cõi Niết-Bàn
Phải một lòng tinh-tấn
Rời các sự buông-lung
Các Phật rất khó gặp
Ức kiếp được một lần
42.- Các con của Phật thảy
Nghe Phật sắp nhập-diệt
Thảy đều lòng buồn khổ
Phật sao gấp diệt vậy?
Ðấng Thánh-Chúa-Pháp-Vương
An ủi vô-lượng chúng:
Nếu lúc ta diệt độ
Các ông chớ lo sợ
Ðức-Tạng Bồ-tát đây
Tâm đã được thông thấu
Nơi vô-lậu thiệt-tướng
Kế đây sẽ thành Phật
Tên hiệu là Tịnh-Thân
Cũng độ vô-lượng chúng.
43.- Ðêm đó Phật diệt độ
Như củi hết, lửa tắt
Chia phân các xá-lợi
Mà xây vô-lượng tháp
Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni
Số đông như hằng-sa
Lại càng thêm tinh-tấn
Ðể cầu đạo vô-thượng
44.- Diệu-Quang pháp-sư ấy
Vưng giữ Phật pháp-tạng
Trong tám mươi tiểu-kiếp.
Rộng nói kinh Pháp-Hoa.
Tám vị vương-tử đó
Ðược Diệu-Quang dạy bảo
Vững bền đạo Vô-thượng
Sẽ thấy vô-số Phật
Cúng-dàng các Phật xong
Thuận theo tu đại đạo
Nối nhau đặng thành Phật
Chuyển thứ thọ-ký nhau,
Ðấng Phật rốt sau cả
Hiệu là: Phật Nhiên-Ðăng
Ðạo-sư (29) của thiên tiên
Ðộ thoát vô-lượng chúng.
45.- Diệu-Quang pháp-sư đó
Có một người đệ-tử
Tâm thường cưu biếng trễ
Tham ưa nơi danh lợi
Cầu danh lợi không nhàm
Thường đến nhà sang giàu
Rời bỏ việc tụng học
Bỏ quên không thông thuộc
Vì bởi nhân-duyên ấy
Nên gọi là Cầu-Danh
Cũng tu các nghiệp lành
Ðược thấy vô-số Phật
Thuận tu theo đại đạo
Ðủ sáu ba-la-mật
Nay gặp đấng Thích-Ca
Sau đây sẽ thành Phật
Hiệu rằng: 'Phật Di-Lặc
Rộng độ hàng chúng-sanh
Số đông đến vô-lượng.
46.- Sau Phật kia diệt độ
Lười-biếng đó là ngài
Còn Diệu-Quang Pháp-sư
Nay thời chính là ta.
Ta thấy Phật Ðăng-Minh
Ðiềm sáng trước như thế
Cho nên biết rằng nay
Phật muốn nói 'Pháp-Hoa'
Tướng nay như điềm xưa.
Là phương-tiện của Phật
Nay Phật phóng ánh-sáng
Giúp bày nghĩa thiệt-tướng
Các người nay nên biết
Chắp tay một lòng chờ
Phật sẽ rưới nước pháp
Ðầy đủ người cầu đạo
Các người cầu ba thừa (30)
Nếu có chỗ nghi-hối
Phật sẽ dứt trừ cho
Khiến hết không còn thừa.
Phẩm 'Phương Tiện' Thứ Hai
1.- Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chính định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Trí-tuệ của các đức Phật rất sâu vô-lượng, môn trí-tuệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Tích-Chi-Phật đều không biết được. Vì sao?
Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức, vô-số các đức Phật, trọn tu vô-lượng đạo-pháp của các đức Phật, dõng mãnh tinh-tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.
Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhơn-duyên, các món thí-dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương-tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Ðức Như-Lai đã đầy-đủ phương-tiện, tri-kiến và ba-la-mật.
Xá-Lợi-Phất! Tri-kiến của Như-Lai rộng lớn sâu xa, đức vô-lượng vô-ngại lực, vô sở-úy, thuyền-định, giải-thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.
Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời-lẽ im dịu vui đẹp lòng chúng.
Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô-lượng vô-biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.
2.- Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chơn-thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tính như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhơn như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt-ráo như vậy.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng:
3.- Ðấng Thế-Hùng khó lường
Các trời cùng người đời
Tất cả loài chúng-sanh
Không ai hiểu được Phật
Trí-lực, vô-sở-úy
Giải-thoát các tam-muội
Các pháp khác của Phật
Không ai so lường được
Vốn từ vô-số Phật
Ðầy đủ tu các đạo
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Khó thấy khó rõ được
Trong vô-lượng ức kiếp
Tu các đạo đó rồi
Ðạo tràng được chứng quả
Ta đều đã thấy biết
Quả-báo lớn như vậy
Các món tính tướng nghĩa
Ta cùng mười phương Phật
Mới biết được việc đó
4.- Pháp đó không chỉ được
Vắng bặt tướng nói năng
Các loài chúng sinh khác
Không có ai hiểu được
Trừ các chúng Bồ-tát
Người sức tin bền chặt
Các hàng đệ-tử Phật
Từng cúng-dàng các Phật
Tất cả lậu đã hết
Trụ thân rốt sau này
Các hạng người vậy thảy
Sức họ không kham được,
Giả-sử đầy thế-gian
Ðều như Xá-Lợi-Phất
Cùng suy chung so lường
Chẳng lường được Phật-trí
Chính sử khắp mười phương
Ðều như Xá-Lợi-Phất
Và các đệ-tử khác
Cũng đầy mười phương cõi
Cùng suy chung so lường
Cũng lại chẳng biết được.
Bậc Duyên-giác trí lành
Vô-lậu thân rốt sau
Cũng đầy mười phương cõi
Số đông như rừng tre,
Hạng này chung một lòng
Trong vô-lượng ức kiếp
Muốn xét Phật thật trí
Chẳng biết được chút phần.
Bồ-tát mới phát tâm
Cúng-dàng vô-số Phật
Rõ thấu các nghĩa thú
Lại hay khéo nói pháp
Như lúa, mè, tre, lau
Ðông đầy mười phương cõi
Một lòng dùng trí mầu
Trải số kiếp hằng-sa
Thảy đều chung suy lường
Chẳng biết được trí Phật
Hàng Bất-thối Bồ-tát
Số đông như hằng-sa
Một lòng chung suy cầu
Cũng lại chẳng hiểu được.
5.- Lại bảo Xá-Lợi-Phất
Pháp nhiệm-mầu rất sâu
Vô-lậu khó nghĩ bàn
Nay ta đã được đủ
Chỉ ta biết tướng đó
Mười phương Phật cũng vậy,
Xá-Lợi-Phất phải biết
Lời Phật nói không khác
Với Pháp của Phật nói
Nên sinh sức tin chắc
Pháp của Phật lâu sau
Cần phải nói chơn thật
Bảo các chúng Thanh-văn
Cùng người cầu Duyên-giác
Ta khiến cho thoát khổ
Ðến chứng được Niết-Bàn
Phật dùng sức phương-tiện
Dạy cho ba-thừa-giáo
Chúng-sinh nơi nơi chấp
Dắt đó khiến ra khỏi.
6.- Khi đó trong đại-chúng có hàng Thanh-văn lậu-tận A-la-hán, ngài A-Nhã Kiều-Trần-Như v.v... một nghìn hai trăm người và các Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam cùng Cận-sự-nữ, hạng người phát tâm Thanh-văn, Duyên-giác đều nghĩ rằng: 'Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân-cần ngợi-khen phương-tiện mà nói thế này: 'Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh-văn cùng Duyên-giác không thể đến được.'
Ðức Phật nói một nghĩa giải-thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu?
7.- Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất biết lòng nghi của bốn-chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Nhơn gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương-tiện thứ nhất nhiệm-mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật?
Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn-chúng thảy đều có lòng nghi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà đức Thế-Tôn ân cần khen-ngợi pháp nhiệm-mầu rất sâu khó hiểu?
Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
8.- Ðấng Huệ-Nhật Ðại-Thánh
Lâu mới nói pháp này,
Tự nói pháp mình chứng
Lực, vô-úy, tam-muội,
Thuyền-định, giải-thoát thảy
Ðều chẳng nghĩ bàn được.
Pháp chứng nơi đạo-tràng
Không ai hỏi đến được,
Ý con khó lường được
Cũng không ai hay hỏi.
Không hỏi mà tự nói
Khen-ngợi đạo mình làm
Các đức Phật chứng được
Trí-tuệ rất nhiệm-mầu.
Hàng vô-lậu La-Hán
Cùng người cầu Niết-bàn
Nay đều sa lưới nghi
Phật cớ chi nói thế?
Hạng người cầu Duyên-Giác.
Tỷ-Khiêu, Tỷ-Khiêu-ni,
Các trời, rồng, quỉ, thần
Và Càn-thát-bà thảy
Ngó nhau cưu lòng nghi
Nhìn trông đấng Túc-Tôn,
Việc đó là thế nào
Xin Phật vị dạy cho?
Trong các chúng Thanh-Văn
Phật nói con hạng nhất
Nay con nơi trí mình
Nghi lầm không rõ được
Vì là pháp rốt-ráo
Vì là đạo Phật làm
Con từ miệng Phật sanh
Chắp tay nhìn trông chờ
Xin ban tiếng nhiệm-mầu
Liền vì nói như thực
Các trời, rồng, thần thảy
Số đông như hằng-sa
Bồ-tát cầu thành Phật
Số nhiều có tám muôn
Lại những muôn ức nước
Vua Chuyển-Luân-Vương đến
Ðều lòng kính chắp tay
Muốn nghe đạo đầy-đủ.
9.- Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ.'
10.- Ngài Xá-Lợi-Phất lại bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao?
Trong hội đây có vô-số trăm nghìn muôn ức A-tăng-kỳ chúng-sinh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí-tuệ sáng-suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin'.
Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Ðấng Pháp-Vương vô-thượng
Xin nói chuyện đừng lo
Vô-lượng chúng hội đây
Có người hay kính tin.
11.- Ðức Phật lại ngăn Xá-Lợi-Phất: 'Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, a-tu-la đều sẽ kinh nghi Tỷ-khiêu Tăng-thượng-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn.'
Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằng:
Thôi thôi! Chẳng nên nói
Pháp ta diệu khó nghĩ
Những kẻ tăng-thượng-mạn
Nghe ắt không kính tin.
12.- Lúc ấy ngài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn ức. Ðời đời đã từng theo Phật học-hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an-ổn nhiều điều lợi-ích.
Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Ðấng Vô-thượng-lưỡng-túc
Xin nói pháp đệ-nhất
Con là trưởng-tử Phật
Xin thương phân-biệt nói.
Vô-lượng chúng-hội đây
Hay kính tin pháp này
Ðời đời Phật đã từng
Giáo-hóa chúng như thế
Ðều một lòng chắp tay
Muốn muốn nghe lãnh lời Phật.
Chúng con nghìn hai trăm
Cùng hạng cầu Phật nọ
Nguyện Phật vì chúng này
Cúi xin phân-biệt nói
Chúng đây nghe pháp ấy
Thời sinh lòng vui-mừng.
13.- Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Ông đã ân-cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân-biệt giải-nói.'
14.- Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ, cả thẩy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng-thượng-mạng, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà đã cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Ðức Thế-Tôn yên lặng không ngăn cản.
15.- Bấy giờ, Ðức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Những gã tăng-thượng-mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói.'
Ngài Xá-Lợi-Phất bạch rằng: 'Vâng thưa Thế-Tôn con nguyện ưa muốn nghe'.
16.- Ðức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, đó như hoa linh-thoại đến thời-tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.
17.- Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật theo thời-nghi nói pháp ý-thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên, lời lẽ thí-dụ diễn nói các pháp.
Pháp đó không phải là suy-lường phân-biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhơn-duyên lớn mà hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúng-sinh khai tri-kiến-Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri-kiến-Phật cho chúng-sinh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng-sinh tỏ ngộ tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng-sinh chứng vào đạo tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất! Ðó là các đức Phật do vì một sự nhơn-duyên lớn mà hiện ra nơi đời'.
18.- Ðức Phật bảo Xá-Lợi-Phất: 'Các đức Phật Như-Lai chỉ giáo-hóa Bồ-tát, những điều làm ra thường vì một việc: chỉ đem tri-kiến-Phật chỉ cho chúng-sinh tỏ ngộ thôi.'
Xá-Lợi-Phất! Ðức Như-Lai chỉ dùng một Phật-Thừa mà vì chúng-sinh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.
Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.
Xá-Lợi-Phất! Thuở quá-khứ các đức Phật dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời-lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật-thừa, nên các chúng-sinh đó theo chư Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí.'
Xá-Lợi-Phất! Thuở vị-lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật-thừa nên các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí'.
Xá-Lợi-Phất! Hiện-tại nay, trong vô-lượng trăm nghìn muôn-ức cõi Phật ở mười phương, các đức Phật Thế-Tôn nhiều điều lợi-ích an-vui cho chúng-sinh. Các đức Phật đó cũng dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật-thừa, các chúng-sinh ấy theo Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí'.
Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật đó chỉ giáo-hóa Bồ-tát, vì muốn đem tri-kiến-Phật mà chỉ cho chúng-sinh, vì muốn đem tri-kiến-Phật cho chúng-sinh tỏ ngộ, vì muốn làm cho chúng-sinh chứng vào tri-kiến-Phật vậy.
Xá-Lợi-Phất! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng-sinh có những điều ưa-muốn, thân-tâm mê-chấp, ta tùy theo bản-tính kia dùng các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ cùng sức phương-tiện mà vì đó nói pháp.
Xá-Lợi-Phất! Như thế đều vì để chứng được một Phật-thừa 'nhất-thiết chủng-trí.'
20.- Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước ở mười phương còn không có hai thừa hà-huống có ba!
Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: kiếp trược, phiền-não trược, chúng-sinh trược, kiến trược, mệnh trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúng-sinh nhơ nặng, bỏn-sẻn, tham-lam, ghét-ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương-tiện, nơi một Phật-thừa, phân-biệt nói thành ba.
21.- Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ-tử ta tự cho mình là A-la-hán cùng Duyên-giác mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ giáo-hóa Bồ-tát, người này chẳng phải là đệ-tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên-giác.
Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỷ-Khiêu, Tỷ-khiêu-ni đó tự cho mình đã được A-la-hán, là thân rốt sau rốt-ráo Niết-Bàn, bèn chẳng lại chí-quyết cầu đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng-thượng-mạn. Vì sao? nếu có Tỷ-khiêu thực chứng-quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện-tiền không Phật. Vì sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ-trì đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rõ.
Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ-trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư-vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật-thừa thôi.
Khi ấy đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
22.- Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni
Cựu lòng tăng-thượng-mạng
Cận-sự-nam ngã-mạn
Cận-sự-nữ chẳng tin,
Hàng bốn-chúng như thế
Số kia có năm nghìn
Chẳng tự thấy lỗi mình
Nơi giới có thiếu-sót
Tiếc giữ tội quấy mình
Trí nhỏ đó đã ra,
Bọn cám tấm trong chúng
Uy-đức Phật phải đi,
Gã đó kém phước-đức
Chẳng kham lãnh pháp này,
Chúng nay không cành lá
Chỉ có những hột chắc
23.- Xá-Lợi-Phất khéo nghe!
Pháp của các Phật được
Vô-lượng sức phương-tiện
Mà vì chúng-sinh nói.
Tâm của chúng-sinh nghĩ
Các món đạo ra làm
Bao nhiêu những tánh dục
Nghiệp lành dữ đời trước
Phật biết hết thế rồi
Dùng các duyên thí-dụ
Lời-lẽ sức phương-tiện
Khiến tất cả vui-mừng.
Hoặc là nói thế-kinh
Cô-khởi cùng bổn-sự.
Bổn-sinh, vị-tằng-hữu
Cũng nói những nhân-duyên
Thí-dụ và Trùng-tụng
Luận-nghị cộng chín kinh.
Căn-độn ưa pháp nhỏ.
Tham-chấp nơi sinh-tử
Nơi vô-lượng đức Phật
Chẳng tu đạo sâu mầu
Bị các khổ-não loạn
Vì đó nói Niết-bàn.
Ta bày phương-tiện đó
Khiến đều vào tuệ Phật,
Chưa từng nói các ông
Sẽ được thành Phật-đạo
Sở-dĩ chưa từng nói
Vì giờ nói chưa đến,
Nay chính là đến giờ
Quyết định nói đại-thừa.
24.- Chín bộ pháp của ta
Thuận theo chúng-sanh nói
Vào đại-thừa làm gốc
Nên mới nói kinh này.
Có phật-tử tâm tịnh
Êm dịu cũng căn lợi,
Nơi vô-lượng các Phật
Mà tu đạo sâu mầu,
Vì hàng phật-tử này
Nói kinh đại-thừa đây.
Ta ghi cho người đó
Ðời sau thành Phật-đạo
Bởi thâm tâm niệm Phật
Tu trì tịnh-giới vậy
Hạng này nghe thành Phật
Rất mừng đầy khắp mình,
Phật biết tâm của kia.
Nên vì nói đại-thừa.
Thanh-Văn hoặc Bồ-tát,
Nghe ta nói pháp ra
Nhẫn đến một bài kệ
Ðều thành Phật không nghi.
25.- Trong cõi Phật mười phương
Chỉ có một thừa pháp
Không hai cũng không ba
Trừ Phật phương-tiện nói
Chỉ dùng danh tự giả
Dẫn dắt các chúng-sanh
Vì nói trí-tuệ Phật.
Các Phật ra nơi đời
Chỉ một việc này thực
Hai thứ chẳng phải chơn.
Trọn chẳng đem tiểu-thừa
Mà tế độ chúng-sinh,
Phật tự trụ đại-thừa
Như pháp của mình được
Ðịnh, huệ, lực trang-nghiêm
Dùng đây độ chúng-sanh.
Tự chứng đạo vô-thượng
Pháp bình-đẳng đại-thừa
Nếu dùng tiểu-thừa độ
Nhẫn đến nơi một người
Thời ta đọa sân tham
Việc ấy tất không được,
Nếu người tin về Phật
Như-Lai chẳng dối gạt
Cũng không lòng tham ghen
Dứt ác trong các pháp
Nên Phật ở mười phương
Mà riêng không chỗ sợ.
Ta dùng tướng trang-nghiêm
Ánh-sáng soi trong đời
Ðấng vô-lượng chúng trọng
Vì nói thực-tướng ấn
26.- Xá-Lợi-Phất! nên biết
Ta vốn lập thệ-nguyện
Muốn cho tất cả chúng
Bằng như ta không khác,
Như ta xưa đã nguyện
Nay đã đầy-đủ rồi
Ðộ tất cả chúng-sanh
Ðều khiến vào Phật-đạo
Nếu ta gặp chúng-sanh
Dùng Phật-đạo dạy cả
Kẻ vô-trí rối sai
Mê-lầm không nhận lời.
Ta rõ chúng-sanh đó
Chưa từng tu cội lành
Chấp chặt nơi ngũ-dục
Vì si-ái sinh khổ,
Bởi nhân-duyên các dục.
Sanh vào ba đường dữ
Xoay lăn trong sáu nẻo
Chịu đủ những khổ độc
Thân mọn thụ bào thai
Ðời đời tăng trưởng luôn
Người đức mỏng ít phước
Các sự khổ bức ngặt
Vào rừng rậm tà-kiến
Hoặc chấp có, chấp không
Nương gá các chấp này
Ðầy đủ sáu mươi hai
Chấp chặt pháp hư-vọng
Bền nhận không bỏ được
Ngã-mạn tự khoe cao
Dua-nịnh lòng không thực
Trong nghìn muôn ức kiếp
Chẳng nghe danh-tự Phật
Cũng chẳng nghe chính-pháp
Người như thế khó độ.
27.- Cho nên Xá-Lợi-Phất!
Ta vì bày phương-tiện
Nói các đạo dứt khổ
Chỉ cho đó Niết-Bàn
Ta dầu nói Niết-Bàn
Cũng chẳng phải thực-diệt,
Các pháp từ bản-lai
Tướng thường tự vắng-lặng
Phật-tử hành-đạo rồi
Ðời sau được thành Phật
Ta có sức phương tiện
Mở bày khắp ba-thừa.
Tất cả các Thế-Tôn
Ðều nói đạo nhất-thừa
Nay trong đại-chúng này
Ðều nên trừ nghi-lầm
Lời Phật nói không khác
Chỉ một, không hai thừa.
28.- Vô-số kiếp đã qua
Vô-lượng Phật diệt-độ
Trăm nghìn muôn ức Phật
Số nhiều không lường được.
Các Thế-Tôn như thế
Các món duyên thí-dụ
Vô-số ức phương-tiện
Diễn nói các pháp tướng,
Các đức Thế-Tôn đó
Ðều nói pháp nhất-thừa
Ðộ vô-lượng chúng-sanh
Khiến vào nơi Phật-đạo
Lại các đại-thánh-chúa
Biết tất cả thế-gian
Trời người loài quần-sanh
Thâm-tâm chỗ ưa-muốn
Bèn dùng phương-tiện khác
Giúp bày nghĩa đệ-nhất.
29.- Nếu có loài chúng-sinh
Gặp các Phật quá-khứ
Hoặc nghe pháp bố-thí
Hoặc trì-giới nhẫn-nhục
Tinh-tấn, thuyền, trí thảy
Các món tu phước-tuệ,
Những người như thế đó
Ðều đã thành Phật-đạo
Sau các Phật diệt-độ
Nếu người lòng lành dịu
Các chúng-sinh như thế
Ðều đã thành Phật-đạo
30.- Các Phật diệt-độ rồi
Người cúng-dàng Xá-Lợi
Dựng muôn-ức thứ tháp
Vàng, bạc và pha-lê
Xà-cừ cùng mã-não
Ngọc mai-khôi, lưu-ly
Thanh-tịnh rộng nghiêm sức,
Trau-giồi nơi các tháp,
Hoặc có dựng miếu đá
Chiên-đàn và trầm-thủy
Gỗ mật cùng gỗ khác
Gạch ngói bùn đất thảy,
Hoặc ở trong đồng trống
Chứa đất thành miếu Phật
Nhẫn đến đồng-tử giỡn
Nhóm cát thành tháp Phật,
Những hạng người như thế
Ðều đã thành Phật-đạo.
31.- Nếu như người vì Phật
Xây dựng các hình-tượng
Chạm-trổ thành các tướng
Ðều đã thành Phật-đạo.
Hoặc dùng bảy báu làm
Thau, đồng bạch, đồng đỏ
Chất nhôm cùng chì kẽm
Sắt, gỗ cùng với bùn
Hoặc dùng keo, sơn, vải
Nghiêm-sức làm tượng Phật
Những người như thế đó
Ðều đã thành Phật-đạo
Vẽ vời làm tượng Phật
Trăm tướng phước trang-nghiêm
Tự làm hoặc bảo người
Ðều đã thành Phật-đạo.
Nhẫn đến đồng-tử giỡn
Hoặc cỏ cây và bút
Hoặc lấy móng tay mình
Mà vẽ làm tượng Phật
Những hạng người như thế
Lần lần chứa công-đức
Ðầy đủ tâm đại-bi
Ðều đã thành Phật-đạo
Chỉ dạy các Bồ-tát
Ðộ thoát vô-lượng chúng.
32.- Nếu người nơi tháp-miếu
Tượng báu và tượng vẽ
Dùng hoa, hương, phan, lọng
Lồng kính mà cúng-dàng
Hoặc khiến người trổi nhạc
Ðánh trống, thổi sừng ốc
Tiêu địch, cầm, không-hầu
Tỳ-bà, chụp-chả đồng
Các tiếng hay như thế
Ðem dùng cúng-dàng hết
Hoặc người lòng vui-mừng
Ca ngâm khen đức Phật
Nhẫn đến một tiếng nhỏ
Ðều đã thành Phật-đạo
33.- Nếu người lòng tán-loạn
Nhẫn đến dùng một hoa
Cúng-dàng nơi tượng vẽ
Lần thấy các đức Phật
Hoặc có người lễ lạy
Hoặc lại chỉ chắp tay
Nhẫn đến giơ một tay
Hoặc lại hơi cúi đầu
Dùng đây cúng-dàng tượng
Lần thấy vô-lượng Phật
Tự thành đạo vô-thượng
Rộng độ chúng vô-số
Vào vô-dư Niết-bàn
Như củi hết lửa tắt.
Nếu lòng người tán-loạn
Vào nơi trong tháp-miếu
Một xưng Nam-mô Phật
Ðều đã thành Phật-đạo
Nơi các Phật quá-khứ
Tại-thế, hoặc diệt-độ,
Có người nghe pháp này
Ðều đã thành Phật-đạo
34.- Các Thế-Tôn vị-lai
Số nhiều không thể lường
Các đức Như-Lai đó
Cùng phương-tiện nói pháp.
Tất cả các Như-Lai
Dùng vô-lượng phương-tiện
Ðộ thoát các chúng-sinh
Vào trí vô-lậu Phật,
Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật.
Các Phật vốn thệ-nguyện
Ta tu hành Phật-đạo
Khắp muốn cho chúng-sinh
Cũng đồng được đạo này.
Các Phật đời vị-lai
Dầu nói trăm nghìn ức
Vô-số các pháp-môn
Kỳ-thực vì nhất-thừa.
Các Phật lưỡng-túc-tôn
Biết pháp thường không tính
Giống Phật theo duyên sinh
Cho nên nói nhất-thừa.
Pháp đó trụ ngôi pháp
Tướng thế-gian thường còn
Nơi đạo-tràng biết rồi
Ðức Phật phương tiện nói.
Hiện-tại mười phương Phật
Của trời người cúng-dàng
Số nhiều như hằng-sa
Hiện ra nơi thế-gian
Vì an-ổn chúng-sanh
Cũng nói pháp như thế.
Biết vắng-bặt thứ nhất
Bởi dùng sức phương-tiện
Dầu bày các món đạo
Kỳ-thực vì Phật-thừa
Biết các hạnh chúng-sinh
Thâm-tâm nó nghĩ nhớ
Nghiệp quen từ quá-khứ
Tính-dục, sức tinh-tấn
Và các căn-lợi độn
Dùng các món nhân-duyên
Thí-dụ cùng lời-lẽ
Tùy-cơ phương-tiện nói.
Từ nay cũng như vậy
Vì an-ổn chúng-sinh
Dùng các món pháp-môn
Rao bày nơi Phật-đạo
Ta dùng sức trí-tuệ
Rõ tính dục chúng-sinh
Phương-tiện nói các pháp
Ðều khiến được vui-mừng.
Xá-Lợi-Phất nên biết!
Ta dùng mắt Phật xem
Thấy sáu đường chúng-sinh
Nghèo cùng không phước-tuệ
Vào đường hiểm sinh-tử
Khổ nối luôn không dứt
Sâu tham nơi ngũ-dục
Như trâu 'mao' mến đuôi
Do tham-ái tự che
Ðui mù không thấy biết
Chẳng cầu Phật thế lớn
Cùng pháp dứt sự khổ
Sâu vào các tà-kiến
Lấy khổ muốn bỏ khổ
Phật vì chúng-sinh này
Mà sinh lòng đại-bi
36.- Xưa, tu ngồi đạo-tràng
Xem cây cùng kinh-hành
Suy-nghĩ việc như vầy:
Trí-tuệ của ta được
Vi-diệu rất thứ nhất
Chúng-sinh các căn chậm
Tham vui si làm mù
Các hạng người như thế
Làm sao mà độ được?
Bấy giờ các Phạm-Vương
Cùng các Trời Ðế-Thích
Bốn Thiên-Vương hộ đời
Và trời Ðại-tự-tại
Cùng các thiên-chúng khác
Trăm nghìn ức quyến-thuộc
Chắp tay cung-kính lễ
Thỉnh ta chuyển-pháp-luân.
Ta liền tự suy-nghĩ
Nếu chỉ khen Phật-thừa
Chúng-sanh chìm nơi khổ
Không thể tin pháp đó
Do phá pháp không tin
Rớt trong ba đường dữ
Ta thà không nói pháp
Mau vào cõi Niết-Bàn
Liền nhớ Phật quá-khứ
Thực-hành sức phương-tiện
Ta nay chứng được đạo
Cũng nên nói ba thừa.
37.- Lúc ta nghĩ thế đó
Mười phương Phật đều hiện
Tiếng phạm an-ủi ta
Hay thay! đức Thích-Ca
Bậc Ðạo-sư thứ nhất
Ðược pháp vô-thượng ấy
Tùy theo tất cả Phật
Mà dùng sức phương-tiện
Chúng ta cũng đều được
Pháp tối-diệu thứ nhất
Vì các loại chúng-sinh
Phân-biệt nói ba-thừa.
Trí kém ưa pháp nhỏ
Chẳng tự tin thành Phật
Cho nên dùng phương-tiện
Phân-biệt nói các quả
Dầu lại nói ba-thừa
Chỉ vì dạy Bồ-tát.
38.- Xá-Lợi-Phất nên biết!
Ta nghe các đức Phật
Tiếng nhiệm-mầu rất sạch
Xưng: 'Nam-mô chư Phật!'
Ta lại nghĩ thế này
Ta ra đời trược-ác
Như các Phật đã nói
Ta cũng thuận làm theo
Suy-nghĩ việc đó rồi
Liền đến thành Ba-Nại.
Các pháp-tướng tịch-diệt
Không thể dùng lời bày
Bèn dùng sức phương-tiện
Vì năm Tỷ-khiêu nói.
Ðó gọi chuyển-pháp-luân
Bèn có tiếng Niết-bàn
Cùng với A-La-Hán
Tên pháp, tăng sai khác.
Từ kiếp xa nhẫn lại
Khen bày Pháp Niết-Bàn
Dứt hẳn khổ sống chết
Ta thường nói như thế
39.- Xá-Lợi-Phất phải biết
Ta thấy các Phật-tử
Chí-quyết cầu Phật-đạo
Vô-lượng nghìn muôn ức
Ðều dùng lòng cung-kính
Ðồng đi đến chỗ Phật
Từng đã theo các Phật
Nghe nói pháp phương-tiện
Ta liền nghĩ thế này
Sở-dĩ Phật ra đời
Ðể vì nói Phật-tuệ
Nay chính đã đúng giờ.
40.- Xá-Lợi-Phất phải biết!
Người căn chậm trí nhỏ
Kẻ chấp tướng kiêu-mạo
Chẳng thể tin pháp này
Nay ta vui vô-úy
Ở trong hàng Bồ-tát
Chính bỏ ngay phương-tiện
Chỉ nói đạo vô-thượng.
Bồ-tát nghe pháp đó
Ðều đã trừ lưới nghi
Nghìn hai trăm la-hán
Cũng đều sẽ thành Phật
Như nghi-thức nói pháp
Của các Phật ba đời
Ta nay cũng như vậy
Nói pháp không phân-biệt
Các đức Phật ra đời
Lâu xa khó gặp-gỡ
Chính sử hiện ra đời
Nói pháp này khó hơn
Vô-lượng vô-số kiếp
Nghe pháp này cũng khó,
Hay nghe được pháp này
Người đó cũng lại khó
Thí như hoa linh-thoại
Tất cả đều ưa-mến
Ít có trong trời, người
Lâu lâu một lần trổ.
41.- Người nghe pháp mừng khen
Nhẫn đến nói một lời
Thời là đã cúng dàng
Tất cả Phật ba đời
Người đó rất ít có
Hơn cả hoa Ưu-đàm.
Các ông chớ có nghi
Ta là vua các pháp
Khắp bảo các đại chúng
Chỉ dùng đạo nhất thừa
Dạy bảo các Bồ-tát
Không Thanh-Văn đệ-tử
42.- Xá-Lợi-Phất các ông!
Thanh-Văn và Bồ-tát
Phải biết pháp mầu này
Bí yếu của các Phật
Bởi đời ác năm trược
Chỉ tham ưa các dục
Những chúng-sinh như thế
Trọn không cầu Phật-đạo
Người ác đời sẽ tới
Nghe Phật nói nhất-thừa
Mê lầm không tin nhận
Phá pháp đọa đường dữ
Người tàm quí trong sạch
Quyết chí cầu Phật-đạo
Nên vì bọn người ấy
Rộng khen đạo nhất-thừa.
Xá-Lợi-Phất nên biết
Pháp các Phật như thế
Dùng muôn ức phương-tiện
Tùy thời nghi nói pháp
Người chẳng học tập tu
Không hiểu được pháp này
Các ông đã biết rõ
Phật là thầy trong đời
Việc phương-tiện tùy-nghi
Không còn lại nghi lầm
Lòng sinh rất vui mừng
Tự biết sẽ thành Phật.
________
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
_________________
QUYỂN THỨ NHẤT
________
Một sáng chiếu phương đông, thể diệu toàn bày, chẳng phải chỗ suy lường mà suy lường được, thầm hiểu ở trong lòng, phương-tiện truyền bày một đạo nhả hương trời.
Nam-mô Pháp-hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)
Thế-Tôn hiện điềm tốt, Di-Lặc nghi tướng lành, Văn-Thù vì chúng rộng phô bày: Phật xưa phóng hào-quang. Ba phen mời đấng Pháp Vương vì nói hương Diệu-Liên.
Nam-mô quá-khứ Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh Phật (3 lần)
THÍCH NGHĨA
(1) KINH: Pháp thường, mười phương ba đời các đức Phật đều nói như vậy. Nói đủ là 'Khế Kinh' nghĩa là 'pháp thường khế hiệp chân-lý cùng khế hiệp căn-cơ chúng-sinh'. DIỆU PHÁP LIÊN HOA: Pháp mầu khó nghĩ lường, thắng hơn tất cả các pháp. Kinh pháp này là bậc nhất trong kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen, vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc-biệt:
1. Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.
2. Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.
3. Cọng hoa từ gốc tách riêng nhưng không chung cành với lá.
4. Ong và bướm không bu đậu.
5. Không bị người dùng làm trang điểm (Xưa đàn bà Ấn-Ðộ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo đội v.v...)
(2) Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
(3) Các điều vọng lầm hay làm lọt mất công-đức lành.
(4) Tự mình đã được thoát khỏi khổ sinh-tử luân hồi.
(5) Ba cõi: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc.
(6) Từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được giải thoát còn phải học tập nên gọi 'Hữu-học'. Quả A-la-hán đã được giải thoát, về trong tiểu thừa pháp, thời không còn phải học nữa nên gọi Vô-học.
(7) Quả chứng của Phật.
(8) Tổng trì: Gồm nhiếp các Pháp.
(9) Tài biện luận ưa giảng nói pháp.
(10) Chỗ rốt ráo, trọn vẹn, nên xong hoàn toàn.
(11) Tên của vị vua 33 nước trời Ðao-lỵ ở trên đỉnh núi Tu-Di.
(12) Ba thứ tiếng vang dội và 3 thứ rung động của hình sắc.
(13) (16) Các loài thần hầu hạ cõi Ðao-lỵ.
(14) Thần phi-thiên: có phúc như trời mà đức kém hơn trời.
(15) Chim cánh vàng (kim sí-điểu)
(17) Thần rắn.
(18) 1) Trời, 2) Người, 3) A-tu-la, 4) Thú, 5) Quỉ, 6) Ðịa ngục.
(19) Phật là vua pháp (pháp-vương). Bồ-tát cũng như con của Phật nên là: Pháp-vương-tử.
(20) Người thụ tam-qui ngũ-giới tu tại-gia gần gũi hộ thờ Tam-Bảo nên gọi cận-sự, đàn ông là Nam, đàn bà là nữ, ta quen gọi là 'Cư-sĩ'.
(21) Vô-số (một số lớn). Kiếp có: tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp. Một tiểu-kiếp có 16.798.000 năm. Một trung-kiếp có 20 tiểu-kiếp. Một đại-kiếp có 4 trung-kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Không.
(22) 1) Khổ-đế, 2) Tập-đế, 3) Diệt-đế, 4) Ðạo-đế.
(23) 1) Vô-minh, 2) Hành, 3) Thức, 4) Danh sắc, 5) Lục nhập, 6) Xúc, 7) Thụ, 8) Ái, 9) Thủ, 10) Hữu,
11) Sinh, 12) Lão-tử . 12 món này làm nhân duyên lẫn nhau.
(24) Cũng gọi là 6 độ: 1) Bố-thí-độ, 2) Trì-giới-độ, 3) Nhẫn-nhục-độ, 4)Tinh-tấn-độ, 5) Thuyền-định-độ,
6) Trí-tuệ-độ.
(25) Trí của Phật.
(26) 1) Ðông-thắng-thần châu. 2) Nam-Thiệm-bộ châu (quả địa-cầu), 3) Tây-ngưu-hóa châu, 4) Bắc-câu-lô
châu.
(27) (THỌ-KÝ): Trao cho lời ghi chắc về sau, bao nhiêu năm cõi nào sẽ thành Phật hiệu là v.v...
(28) Sông Hằng một con sông lớn xứ Ấn-Ðộ, trong sông và hai bờ có cát rất mịn, trong kinh thường dùng số
cát ấy để chỉ một một số đông nhiều.
(29) Ông thầy dắt dẫn.
(30) Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa, Phật-thừa.
(31) Phương-chước hay phương-pháp tiện-lợi dễ-dàng.
SỰ-TÍCH
TẢ KINH PHÁP HOA
ÔNG NGHIÊM CUNG
Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Ðại-Kiến năm đầu, ở xứ Dương-Châu có ông Nghiêm-Cung tả kinh Pháp-Hoa để phát cho người trì tụng.
Lúc đó có thần ở miếu Cung-Ðình-Hồ mách mộng cho khách buôn đem hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả kinh.
Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu 3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng điếu trao cho ông Cung mà nói: 'Giúp ông mua giấy'. Nói xong biến mất.
Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang-Ðô đều dặn nhau không nên phạm đến xóm của ông Nghiêm Pháp-Hoa (Nghiêm-Cung). Nhờ đó mà cả xóm an-lành.
Ðến cuối đời Ðường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không thôi.
'Vậy thời tả kinh, hay in kinh công-đức lớn biết dường nào, không nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện-tại cũng không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà mọi người ở gần cũng được nhờ, cả thần thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông Nghiêm-Cung đây vậy.'
KINH
Diệu Pháp Liên Hoa
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dịch từ Hoa văn sang tiếng Việt
Quyển Thứ Hai
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch.
Phẩm 'Thí Dụ' Thứ Ba
1.- Lúc bấy giờ ngài Xá-Lợi-Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chắp tay chiêm-ngưỡng dung-nhan của đức Phật mà bạch Phật rằng: 'Nay con theo đức Thế-Tôn nghe được tiếng pháp này, trong lòng hớn hở được điều chưa từng có. Vì sao? Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-tát được thụ-ký thành Phật mà chúng con chẳng được dự việc đó tự rất cảm thương mất vô lượng tri kiến của Như-Lai.
Thế-Tôn! Con thường khi một mình ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, hằng nghĩ như vậy: Chúng ta đồng vào pháp-tính, tại sao đức Như-Lai lại dùng pháp tiểu-thừa mà tế-độ cho?
Ðó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế-Tôn vậy. Vì sao? Nếu chúng con chờ Phật nói pháp sở-nhân thành-đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác thời chắc do pháp đại-thừa mà được độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu Phật phương-tiện theo cơ-nghi mà nói pháp, vừa mới nghe Phật nói pháp vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy.
Thế-Tôn! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách mình, mà nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước khi hề nghe, dứt các lòng nghi hối, thân ý thơ-thới rất được an-ổn. Ngày nay mới biết mình thật là Phật-tử, từ miệng Phật sinh ra, từ pháp hóa sinh, được pháp phần của Phật.
Khi ấy, Ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2.- Con nghe tiếng pháp này
Ðược điều chưa từng có
Lòng rất đổi vui mừng
Lưới nghi đều đã trừ,
Xưa nay nhờ Phật dạy
Chẳng mất nơi đại-thừa.
Tiếng Phật rất ít có
Hay trừ khổ chúng-sinh
Con đã được lậu-tận (1)
Nghe cũng trừ lo khổ.
Con ở nơi hang núi
Hoặc dưới cụm cây rừng
Hoặc ngồi hoặc kinh-hành
Thường suy nghĩ việc này,
Thôi ôi! Rất tự trách
Sao lại tự khi mình
Chúng ta cũng Phật-tử
Ðồng vào pháp vô-lậu
Chẳng được ở vị-lai
Nói pháp vô-thượng đạo,
Sắc vàng, băm hai tướng (2)
Mười lực (3) các giải-thoát.
Ðồng chung trong một pháp
Mà chẳng được việc đây
Tám mươi tướng tốt đẹp
Mười tám pháp bất-cộng (4)
Các công-đức như thế
Mà ta đều đã mất
3.- Lúc con kinh-hành riêng
Thấy Phật ở trong chúng
Danh đồn khắp mười phương
Rộng lợi-ích chúng-sinh
Tự nghĩ mất lợi này
Chính con tự khi dối
Con thường trong ngày đêm
Hằng suy-nghĩ việc đó
Muốn đem hỏi Thế-Tôn?
Là mất hay không mất?
Con thường thấy Thế-Tôn
Khen ngợi các Bồ-tát (5)
Vì thế nên ngày đêm
Suy-lường việc như vậy
4.- Nay nghe tiếng Phật nói
Theo cơ-nghi dạy Pháp
Vô-lậu khó nghĩ bàn
Khiến chúng đến đạo-tràng.
Con xưa chấp tà-kiến
Làm thày các Phạm-Chí (6)
Thế-Tôn rõ tâm con
Trừ tà nói Niết-bàn.
Con trừ hết tà-kiến
Ðược chứng nơi pháp không
Bấy giờ lòng tự bảo
Ðược đến nơi diệt-độ
Mà nay mới tự biết
Chẳng phải thực diệt-độ.
Nếu lúc được thành Phật
Ðủ ba mươi hai tướng
Trời, người, chúng, dạ-xoa
Rồng, thần đều cung-kính
Bấy giờ mới được nói
Dứt hẳn hết không thừa
Phật ở trong đại-chúng
Nói con sẽ thành Phật
Nghe tiếng pháp như vậy
Lòng nghi hối đã trừ
5.- Khi mới nghe Phật nói
Trong lòng rất sợ nghi
Phải chăng ma giả Phật
Não loạn lòng ta ư?
Phật dùng các món duyên
Thí-dụ khéo nói phô,
Lòng kia an như biển
Con nghe, lưới nghi dứt.
Phật nói thuở quá-khứ
Vô-lượng Phật diệt-độ
An-trụ trong phương-tiện
Cũng đều nói pháp đó.
Phật hiện-tại, vị-lai.
Số nhiều cũng vô-lượng
Cũng dùng các phương-tiện
Diễn nói pháp như thế.
Như Thế-Tôn ngày nay
Từ sinh đến xuất-gia
Ðược đạo chuyển-pháp-luân
Cũng dùng phương-tiện nói
Thế-Tôn nói đạo thực
Ba tuần (7) không nói được
Vì thế con định biết
Không phải ma giả Phật
Con sa vào lưới nghi
Cho là ma làm ra.
Nghe tiếng Phật êm-dịu
Sâu xa rất nhiệm-mầu
Nói suốt pháp thanh-tịnh
Tâm con rất vui mừng.
Nghi hối đã hết hẳn
An trụ trong thực trí
Con quyết sẽ thành Phật
Ðược trời, người cung-kính
Chuyển pháp-luân vô-thượng
Giáo-hóa các Bồ-tát.
6.- Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Ta nay ở trong hàng Trời, người, sa-môn, bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật vì đạo vô-thượng nên thường giáo-hóa ông, ông cũng lâu dài theo ta thụ học, ta dùng phương-tiện dẫn dắt ông sinh vào trong pháp ta'.
Xá-Lợi-Phất! Ta thuở xưa dạy ông chí-nguyện Phật-đạo, ông nay đều quên mà bèn tự nói đã được diệt-độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bản nguyện cùng đạo đã làm, mà vì các Thanh-Văn nói kinh đại-thừa tên là: 'Diệu-Pháp Liên-Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm'.
7.- Xá-Lợi-Phất! Ông đến đời vị-lai, quá vô-lượng vô-biên bất-khả-tư-nghì kiếp, cúng-dàng bao nhiêu nghìn muôn ức Phật, phụng trì chính-pháp đầy đủ đạo tu-hành của Bồ-tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Quang Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhơn-sư, Phật, Thế-Tôn.
Nước tên: Ly-Cấu, cõi đó bằng thẳng thanh-tịnh đẹp đẽ an-ổn giàu-vui, trời người đông-đảo. Lưu-ly làm đất, có tám đường giao-thông, dây bằng vàng ròng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có hoa trái. Ðức Hoa-Quang Như-Lai cũng dùng ba thừa giáo-hóa chúng-sinh.
Xá-Lợi-Phất! Lúc đức Phật ra đời dầu không phải là đời ác mà bởi bản nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là 'Ðại-Bửu Trang-Nghiêm'. Vì sao gọi là 'Ðại-Bửu Trang-Nghiêm'? Vì trong cõi đó dùng Bồ-tát làm 'Ðại-Bửu' vậy. Các Bồ-tát trong số đông vô-lượng vô-biên bất-khả-tư-nghì, tính kể hay thí-dụ đều không đến được, chẳng phải sức trí-tuệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi thì có hoa đỡ chân.
Các vị Bồ-tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đã trồng cội từ lâu. Ở nơi vô-lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh hằng được các Phật khen. Thường tu trí-tuệ của Phật đủ sức thần thông lớn, khéo biết tất cả các pháp-môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững bậc Bồ-tát như thế, khắp đầy nước đó.
Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật Hoa-Quang thụ mười hai tiểu-kiếp, trừ còn làm Vương-tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thụ tám tiểu kiếp. Ðức Hoa-Quang Như-Lai quá mười hai tiểu-kiếp thụ-ký vô-thượng chính-đẳng chính-giác cho Kiên-Mãn Bồ-tát mà bảo các Tỷ-khiêu: Ông Kiên-mãn Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Túc An-Hành Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-Tri, cõi nước của đức Phật đó cũng lại như đây.
Xá-Lợi-Phất! Sau khi Phật Hoa-Quang đó diệt-độ, chính pháp trụ lại trong đời ba mươi hai tiểu-kiếp, tượng pháp trụ đời cũng ba mươi hai tiểu-kiếp.
Lúc ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
8.- Xá-Lợi-Phất đời sau
Thành đấng Phật trí khắp
Hiệu rằng: Phật Hoa-Quang
Sẽ độ vô-lượng chúng.
Cúng-dàng vô số Phật
Ðầy đủ hạnh Bồ-tát
Các công-đức thập-lực
Chứng được đạo vô-thượng
Quá vô-lượng kiếp rồi
Kiếp tên Ðại-Bửu-Nghiêm
Cõi nước tên Ly-Cấu
Trong sạch không vết nhơ
Dùng lưu-ly làm đất
Dây vàng giăng đường sá
Cây bảy báu sắc đẹp
Thường có hoa cùng trái
Bồ-tát trong cõi đó
Chí-niệm thường bền vững
Thần-thông Ba-la-mật
Ðều đã trọn đầy đủ
Nơi vô-số đức Phật
Khéo học đạo Bồ-tát
Những Ðại-Sĩ như thế
Phật Hoa-Quang hóa-độ.
Lúc Phật làm Vương-tử
Rời nước bỏ vinh-hoa
Nơi thân cuối rốt sau
Xuất-gia thành Phật-đạo
Phật Hoa-Quang trụ-thế
Thọ mười hai tiểu-kiếp
Chúng nhân-dân nước đó
Sống lâu tám tiểu-kiếp
Sau khi Phật diệt-độ
Chính-pháp trụ ở đời
Ba mươi hai tiểu-kiếp
Rộng độ các chúng-sanh
Chính-pháp diệt hết rồi
Tượng-pháp cũng băm hai
Xá-lợi rộng truyền khắp
Trời, người, khắp cúng-dàng
Phật Hoa-Quang chỗ làm
Việc đó đều như thế.
Ðấng lưỡng Túc-Tôn kia
Rất hơn không ai bằng
Phật tức là thân ông
Nên phải tự vui mừng.
9.- Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và cả đại-chúng: Trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, A-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, v.v... thấy Xá-Lợi-Phất ở trước Phật lãnh lấy lời dự ghi sẽ thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác, lòng rất vui mừng hớn-hở vô-lượng. Mỗi người đều cởi-y trên của mình đang đắp để cúng-dàng Phật.
Thích-Ðề Hoàn-Nhân cùng Phạm-Thiên-Vương v.v... và vô-số thiên-tử cũng đem y đẹp của trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la v.v... cúng-dàng nơi Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư-không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm nghìn muôn thứ ở giữa hư-không đồng thời đều trổi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằng: 'Ðức Phật xưa ở thành Ba-La-Nại, ban đầu chuyển pháp-luân rất lớn vô-thượng'.
Lúc đó các thiên-tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
10.- Xưa ở thành Ba-Nại
Chuyển pháp-luân bốn-đế
Phân-biệt nói các pháp
Sanh-diệt của năm nhóm (8)
Nay lại chuyển pháp-luân
Rất lớn diệu vô-thượng,
Pháp đó rất sâu-mầu
Ít có người tin được.
Chúng ta từ xưa lại
Thường nghe Thế-Tôn nói
Chưa từng nghe thượng-pháp
Thâm-diệu như thế này,
Thế-Tôn nói pháp đó
Chúng ta đều tùy-hỉ,
Ðại-trí Xá-Lợi-Phất
Nay được lãnh Phật ký
Chúng ta cũng như vậy
Quyết sẽ được thành Phật,
Trong tất cả thế-gian
Rất tôn không còn trên
Phật-đạo chẳng thể bàn
Phương-tiện tùy-nghi nói
Ta bao nhiêu nghiệp-phước
Ðời nay hoặc quá-khứ
Và công-đức thấy Phật.
Trọn hồi-hướng Phật-đạo.
11.- Bấy giờ, Xá-Lợi-Phất bạch rằng: 'Thế-Tôn! con nay không còn nghi hối, tự mình ở trước Phật được thụ-ký thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Các vị tâm tự-tại một nghìn hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu-học, Phật thường dạy rằng: 'Pháp của ta hay lìa sinh, già, bệnh, chết rốt-ráo Niết-bàn'. Các vị hữu-học vô-học đây cũng đều đã tự rời chấp ngã cùng chấp có, chấp không v.v... nói là được Niết-bàn, mà nay ở trước đức Thế-Tôn nghe chỗ chưa từng nghe, đều sa vào nghi-lầm. Hay thay Thế-Tôn! Xin Phật vì bốn-chúng nói nhân-duyên đó, khiến lìa lòng nghi-hối.'
12.- Khi ấy, Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Ta trước đâu không nói rằng: 'Các Phật Thế-Tôn dùng các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ phương-tiện mà nói pháp đều là vô-thượng chính-đẳng chính-giác ư? Các điều nói đó đều vì dạy Bồ-tát vậy. Nhưng Xá-Lợi-Phất! Nay ta sẽ dùng một thí-dụ để chỉ rõ lại nghĩa đó, những người có trí do thí-dụ mà được hiểu.'
13.- Xá-Lợi-Phất! Như trong quốc ấp, tụ-lạc có vị Ðại Trưởng-giả tuổi đã già suy, của giầu vô-lượng, có nhiều nhà ruộng và các tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, người ở trong đó rất đông; hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm người, lầu gác đã mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trính xiêng xiêu ngã, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy nhà cửa.
Các người con của Trưởng-giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến ba mươi người ở trong nhà đó.
14.- Trưởng-giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ-sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này, ra ngoài rất an-ổn, song các con ở trong nhà lửa ưa vui chơi giỡn không hay biết, không sợ-sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà lòng chẳng nhàm lo, không có ý cầu ra khỏi.
Xá-Lợi-Phất! Ông Trưởng-giả đó lại nghĩ: thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc dùng ghe đẳng từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi giỡn hoặc vấp ngã bị lửa đốt cháy, ta nên vì chúng nó mà nói những việc đáng sợ.
Nhà này đã bị cháy phải liền mau ra, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế theo chỗ đã nghĩ đó mà bảo các con: 'Các con mau ra!' Cha dầu thương-xót khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng sợ-sệt, trọn không có lòng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu gì là lửa? gì là nhà? thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi.
15.- Bấy giờ, Trưởng-giả liền nghĩ nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, ta cùng các con nếu không ra liền chắc sẽ bị cháy, ta nay nên bày chước phương-tiện khiến cho các con được khỏi nạn này.
Cha biết các con đều vẫn có lòng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có, chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: 'Ðây này là những món ít có khó được mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn-năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây tùy ý các con muốn, cha đều sẽ cho các con'.
Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình nên lòng mỗi người đều mạnh-mẽ xô đẩy lẫn nhau cùng đua nhau ruổi chạy tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng-giả thấy các con được an-ổn ra khỏi nhà lửa đều ở trong đường ngã tư nơi đất trống không còn bị chướng-ngại, tâm ông thơ-thới vui mừng hớn-hở.
Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: 'Cha lúc nãy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho.'
16.- Xá-Lợi-Phất! Khi đó Trưởng-giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu, lan-can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch thân hình mập đẹp, có sức rất mạnh bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi-tớ để hầu-hạ đó.
Vì cớ sao? Vì ông Trưởng-giả đó của giàu vô-lượng, các thứ kho-tàng thảy đều đầy ngập, ông nghĩ rằng: 'Của cải của ta nhiều vô-cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu không thiên-lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô-lượng nên lấy lòng bình-đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác.'
Vì sao? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hãy còn không thiếu huống gì các con. Lúc ấy các người con đều ngồi xe lớn được điều chưa từng có, không phải chỗ trước kia mình trông.
17.- Xá-Lợi-Phất! Ý của ông nghĩ sao? Ông Trưởng-giả đó đồng đem xe trân báu lớn cho các người con, có lỗi hư-vọng chăng? Xá-Lợi-Phất thưa: 'Thưa Thế-Tôn! Không, ông Trưởng giả chỉ làm cho các con được khỏi nạn lửa, toàn thân mệnh chúng nó chẳng phải là hư-vọng. Vì sao? Nếu được toàn thân mệnh bèn đã được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương-tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.
Thế-Tôn! Dầu ông Trưởng-giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ còn chẳng phải hư-vọng. Vì sao? Vì ông Trưởng-giả đó trước có nghĩ như vầy: Ta dùng trước phương-tiện cho các con được ra khỏi, vì nhân-duyên đó nên không hư-vọng vậy. Huống gì ông Trưởng-giả tự biết mình của giầu vô-lượng muốn lợi-ích các con mà đồng cho xe lớn!'
18.- Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá-Lợi-Phất! Như-Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế-gian, ở nơi các sự sợ-hãi suy-não lo buồn vô-minh che tối hết hẳn không còn thừa, mà trọn thành tựu vô-lượng tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy; có sức đại thần-thông cùng sức trí-tuệ đầy-đủ các món phương-tiện. Trí-tuệ Ba-la-mật, đại-từ đại-bi thường không hề lười mỏi. Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam-giới cũ mục này, để độ chúng-sinh ra khỏi nạn lửa; sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ-não, ngu-si tối-tăm, ba độc; dạy bảo cho chúng-sinh được vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
19.- Ta thấy, các chúng-sinh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ-não nó đốt cháy, cũng vì năm món dục (9) tài lợi mà bị các điều thống-khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thụ các điều khổ, đời sau thụ khổ địa-ngục, súc-sinh, ngã-quỉ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn-khổ, bị khổ về người yêu thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế chúng-sinh chìm trong đó vui-vẻ dạo chơi, chẳng hay biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh lòng nhàm không cầu giải-thoát; ở trong nhà lửa tam giới này đông tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.
20.- Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là cha của chúng-sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô-lượng vô-biên món trí-tuệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi.
Xá-Lợi-Phất! Ðức Như-Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần-thông cùng sức trí-tuệ bỏ chước phương-tiện, mà vì chúng-sanh khen-ngợi các món tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy của Như-Lai, ắt chúng-sinh chẳng có thể do đó mà được độ thoát.
Vì sao? Vì các chúng-sinh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, đau khổ, đương bị thiêu-đốt trong nhà lửa tam-giới, làm sao có thể hiểu được trí-tuệ của Phật.
21.- Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân-cần phương-tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe trân báu lớn.
Ðức Như-Lai cũng lại như thế, dầu có trí-lực cùng sức vô-úy (10) mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí-tuệ phương-tiện nơi nhà lửa tam-giới cứu vớt chúng-sinh, vì chúng-sinh nói ba-thừa Thanh-văn, Duyên-giác cùng Phật-thừa mà bảo rằng: 'Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam-giới, chớ có ham mê các món sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sinh ái-nhiễm thời sẽ bị nó đốt; các ngươi mau ra khỏi ba cõi sẽ được chứng ba-thừa: Thanh-văn, Duyên-giác và Phật-thừa.
Nay ta vì các người mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các người chỉ nên siêng-năng tinh-tấn tu hành'. Ðức Như-Lai dùng phương-tiện ấy để dụ dẫn chúng-sinh thẳng đến, lại bảo: 'Các ngươi nên biết rằng pháp ba-thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen-ngợi, là pháp tự-tại không bị ràng buộc không còn phải nương gá tìm cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác chi, thánh-đạo (11), thuyền-định vô-lậu cùng giải-thoát tam-muội v.v... để tự vui sướng, được vô-lượng sự an-ổn khoái-lạc.
22.- Xá-Lợi-Phất! nếu có chúng-sanh nào bề trong có trí-tính, theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh-tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi đó là Thanh-văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúng-sanh nào theo đức Thế-Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh-tấn, cầu trí-tuệ tự-nhiên ưa thích riêng lẻ vắng-lặng, sâu rõ nhơn-duyên của các pháp, gọi đó là Duyên-giác-thừa, như các người con kia vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúng-sanh nào theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu tinh-tấn cầu nhất-thiết-trí, Phật-trí, tự-nhiên-trí, vô-sư-trí, các món tri-kiến-lực, vô-úy của Như-Lai, có lòng thương xót làm an-vui cho vô-lượng chúng-sanh, lợi-ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Ðại-thừa, Bồ-tát vì cầu được thừa này thời gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.
23.- Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia thấy các con được an-ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô-úy, ông tự nghĩ, ta của giầu vô-lượng, nên bình-đẳng đem xe lớn đồng cho các con. Ðức Như-Lai cũng lại như thế, là cha của tất cả chúng-sinh, nếu thấy có vô-lượng nghìn ức chúng-sinh do cửa Phật-giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cõi được sự vui Niết-Bàn.
Bấy giờ, đức Như-Lai bèn nghĩ: 'Ta có vô-lượng vô-biên trí-tuệ, lực vô-úy v.v... tạng pháp của các đức Phật, các chúng-sinh này đều là con của ta đồng ban cho pháp đại-thừa, chẳng để có người được diệt-độ riêng, đều đem pháp diệt-độ của Như-Lai mà cho chúng-sinh nó diệt-độ.
Những chúng-sinh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho món vui thuyền-định, giải-thoát v.v... của các đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà các đấng Thánh khen-ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhất.
24.- Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn vật báu trang-nghiêm an-ổn thứ nhất, song ông Trưởng-giả kia không có lỗi hư-dối. Ðức Như-Lai cũng như thế, không có hư-dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng-sanh sau rồi chỉ dùng đại-thừa mà độ giải-thoát đó.
Vì sao? Như-Lai có vô-lượng tạng pháp trí-tuệ, lực, vô sở-úy, có thể ban pháp đại-thừa cho tất cả chúng-sanh, chỉ vì chúng-sanh không thụ được hết.
Xá-Lợi-Phất! Vì nhân-duyên đó nên phải biết các đức Như-Lai dùng sức phương tiện ở nơi một Phật-thừa phân-biệt nói thành ba.
Ðức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
25.- Thí như ông Trưởng-giả
Có một căn nhà rất lớn
Nhà đó đã lâu cũ
Mà lại rất xấu xa,
Phòng nhà vừa cao nguy
Gốc cột lại gẫy mục
Trính xiêng đều xiêu vẹo
Nền móng đã nát rã,
Vách phên đều sụp đổ
Ðất bùn rơi rớt xuống,
Tranh lợp sa tán loạn
Kèo đòn tay rời khớp,
Bốn bề đều cong vạy
Khắp đầy những tạp nhơ,
Có đến năm trăm người
Ở đỗ nơi trong đó.
Chim xi, hiêu, điêu, thứu,
Quạ chim thước, cưu, cáp
Loài ngoan-xà, phúc-yết,
Giống ngô-công, do-diên,
Loài thủ-cung, bá-túc
Dứu, ly-cùng hề-thử
Các giống độc trùng dữ
Ngang dọc xen ruổi chạy,
Chỗ phẩn giải hôi thối.
Ðồ bất tịnh chảy tràn
Các loài trùng khương-lương
Bu nhóm ở trên đó,
Cáo, sói cùng dã-can
Liếm nhai và dày đạp
Cắn xé những thây chết
Xương thịt bừa bãi ra,
Do đây mà bầy chó
Ðua nhau đến ngoạm lấy,
Ốm đói và sợ-sệt
Nơi nơi tìm món ăn
Giành giựt cấu xé nhau
Gầm-gừ gào sủa rên,
Nhà đó sự đáng sợ
Những biến trạng đường ấy.
Khắp chỗ đều có những
Quỉ, lỵ, mị, vọng, lượng
Quỉ Dạ-xoa quỉ dữ
Nuốt ăn cả thịt người,
Các loài trùng độc dữ
Những cầm thú hung-ác
Ấp, cho bú sản sanh
Ðều tự giấu gìn giữ
Quỉ Dạ-xoa đua đến
Giành bắt mà ăn đó,
Ăn đó no nê rồi
Lòng hung-dữ thêm hăng
Tiếng chúng đánh cãi nhau
Thật rất đáng lo sợ.
Những quỉ Cưu-bàn-trà
Ngồi xổm trên đống đất
Hoặc có lúc hỏng đất
Một thước hay hai thước
Qua rồi lại, dạo đi
Buông lung chơi cùng giỡn
Nắm hai chân của chó
Ðánh cho la thất-thanh
Lấy chân đạp trên cổ
Khủng-bố chó để vui.
Lại có các giống quỉ
Thân nó rất cao lớn
Trần truồng thân đen xấu
Thường ở luôn trong đó
Rền tiếng hung ác lớn
Kêu la tìm món ăn
Lại có các giống quỉ
Cổ nó nhỏ bằng kim,
Lại có các giống quỉ
Ðầu nó như đầu trâu
Hoặc là ăn thịt người
Hoặc là ăn thịt chó,
Ðầu tóc rối tung lên
Rất ác lại hung hiểm,
Bị đói khát bức ngặt
Kêu la vừa rong chậy
Dạ-xoa cùng quỉ đói
Các chim muông ác độc
Ðói gấp rảo bốn bề
Rình xem các cửa sổ
Các nạn dường thế đấy
Vô-lượng việc ghê sợ (12)
26.- Nhà cũ mục trên đó
Thuộc ở nơi một người
Người ấy vừa mới ra
Thời-gian chưa bao lâu
Rồi sau nhà cửa đó
Bỗng nhiên lửa cháy đỏ
Ðồng một lúc bốn bề
Ngọn lửa đều hừng hực,
Rường cột và trính-xiêng
Tiếng tách nổ vang-động
Nát gẫy rơi rớt xuống
Vách phên đều lở ngã,
Các loại quỉ thần thảy
Ðồng cất tiếng kêu to,
Các giống chim điêu, thứu
Quỉ Cưu-bàn-trà thảy
Kinh sợ chạy sảng-sốt
Vẫn không tự ra được,
Thú dữ loài trùng độc
Chui núp trong lỗ hang
Các quỉ Tỳ-xá-xà
Cũng ở trong hang đó
Vì phước đức kém vậy
Bị lửa đến đốt bức
Lại tàn hại lẫn nhau
Uống máu ăn thịt nhau.
Những loại thú dã-can
Thời đều đã chết trước
Các giống thú dữ lớn
Giành đua đến ăn nuốt.
Khói tanh bay phùn-phụt
Phủ khắp bít bốn bề,
Loài ngô-công, do-diên
Cùng với rắn hung độc
Bị lửa lòn đốt cháy
Tranh nhau chạy khỏi hang
Quỉ Bàn-trà rình chờ
Liền bắt lấy mà ăn.
Lại có các ngã-quỉ
Trên đầu lửa bực cháy
Ðói khát rất nóng khổ
Sảng-sốt chạy quàng lên,
Nhà lửa đó dường ấy
Rất đáng nên ghê sợ
Ðộc hại cùng tai lửa
Các nạn chẳng phải một.
27.- Lúc bấy giờ chủ nhà
Ðứng ở nơi ngoài cửa
Nghe có người mách rằng:
Các người con của ông
Trước đây vì dạo chơi
Mà đến vào nhà này
Thơ bé không hiểu biết
Chỉ vui ham ưa đắm.
Trưởng-giả vừa nghe xong
Kinh sợ vào nhà lửa
Tìm phương-nghi cứu-tế
Cho con khỏi thiêu-hại
Mà dụ bảo các con
Nói rõ các hoạn-nạn:
Nào ác quỉ độc trùng
Hỏa tai lan-tràn cháy
Các sự khổ thứ lớp
Nối luôn không hề dứt
Loài độc xà, ngươn phúc
Và các quỉ Dạ-xoa
Cùng quỉ Cưu-bàn-trà
Những dã-can, chồn, chó
Chim điêu, thứu xi, hiêu
Lại giống bá túc thảy
Ðều đói khát khổ gấp
Rất đáng phải ghê sợ
Chỗ khổ-nạn như thế
Huống lại là lửa lớn.
Các con nhỏ không hiểu
Dầu có nghe cha dạy
Cứ vẫn còn ham ưa
Vui chơi mãi không thôi.
28.- Bấy giờ trưởng-giả kia
Mới bèn nghĩ thế này:
Các con như thế đó
Làm ta thêm sầu não.
Nay trong nhà lửa này
Không một việc đáng vui
Mà các con ngây dại
Vẫn ham mê vui chơi
Chẳng chịu nghe lời ta
Toan sẽ bị lửa hại.
Ông bèn lại suy-nghĩ
Nên bày các phương-tiện
Bảo với các con rằng:
Cha có rất nhiều thứ
Các đồ chơi trân kỳ
Những xe báu tốt-đẹp
Nào xe dê, xe hươu
Cùng với xe trâu lớn
Hiện để ở ngoài cửa
Các con mau ra đây
Cha chính vì các con
Mà sắm những xe này
Tùy ý các con thích
Có thể để dạo chơi.
Các con nghe cha nói
Các thứ xe như vậy
Tức thời cùng giành đua
Rảo chạy ra khỏi nhà
Ðến nơi khoảng đất trống
Rời những sự khổ-nạn
Trưởng-giả thấy các con
Ðược ra khỏi nhà lửa
Ở nơi ngã tư đường
Ðều ngồi tòa sư-tử
Ông bèn tự mừng rằng
Ta nay rất mừng vui
Những đứa con ta đây
Ðẻ nuôi rất khó lắm
Chúng nhỏ dại không hiểu
Mới lầm và nhà hiểm
Có nhiều loài trùng độc
Quỉ lỵ mị đáng sợ
Lửa lớn cháy hừng-hực
Bốn phía đều phựt lên
Mà các trẻ con này
Lại ham ưa vui chơi
Nay ta đã cứu chúng
Khiến đều được thoát nạn
Vì thế các người ơi!
Ta nay rất vui mừng.
Khi ấy các người con
Biết cha đã ngồi an
Ðều đến bên chỗ cha
Mà thưa cùng cha rằng:
Xin cha cho chúng con
Ba thứ xe báu lạ
Như vừa rồi cha hứa
Các con mau ra đây
Sẽ cho ba thứ xe
Tùy ý các con muốn
Bây giờ chính phải lúc
Xin cha thương cấp cho.
29.- Trưởng-giả giầu có lớn
Kho đụn rất nhiều đầy
Vàng bạc cùng lưu-ly
Xa-cừ ngọc mã-não,
Dùng những món vật báu
Tạo thành các xe lớn
Chưng dọn trang-nghiêm đẹp
Khắp vòng có bao-lơn
Bốn mặt đều treo linh
Dây vàng xen thắt tụi
Lưới mành kết chân-châu
Giăng bày phủ phía trên
Hoa vàng các chuỗi ngọc
Lòng thòng rủ khắp chỗ
Các màu trang sức đẹp
Khắp vòng xây quanh xe
Dùng nhiễu hàng mềm-mại
Ðể làm nệm lót ngồi
Vải quí mịn rất tốt
Giá-trị đến nghìn muôn
Bóng láng trắng sạch-sẽ
Dùng trải trùm trên nệm
Có trâu trắng to lớn
Mập khỏe nhiều sức mạnh
Thân hình rất tươi tốt
Ðể kéo xe báu đó
Ðông những tôi và tớ
Mà chực hầu giữ-gìn
Ðem xe đẹp như thế
Ðồng ban cho các con
Các con lúc bấy giờ
Rất vui mừng hớn-hở
Ngồi trên xe báu đó
Dạo đi khắp bốn phương
Vui chơi nhiều khoái-lạc
Tự-tại không ngăn-ngại.
30.- Bảo Xá-Lợi-Phất này
Ðức Phật cũng như vậy
Tôn cả trong hàng Thánh
Cha lành của trong đời
Tất cả các chúng-sanh
Ðều là con của ta
Say-mê theo thế-lạc
Không có chút tuệ-tâm
Ba cõi hiểm không an
Dường như nhà lửa cháy
Các nạn khổ dẫy-đầy
Rất đáng nên ghê-sợ
Thường có những sanh, già
Bệnh, chết và rầu lo
Các thứ lửa như thế
Cháy hừng chẳng tắt dứt
Ðức Như-Lai đã lìa
Nhà lửa ba-cõi đó
Vắng lặng ở thong-thả
An-ổn trong rừng nội
Hiện nay ba-cõi này
Ðều là của ta cả
Những chúng-sanh trong đó
Cũng là con của ta
Mà nay trong ba-cõi
Có nhiều thứ hoạn-nạn
Chỉ riêng một mình ta
Có thể cứu hộ chúng
Dầu lại đã dạy bảo
Mà vẫn không tin nhận
Vì nơi các dục nhiễm
Rất sanh lòng tham mê
Bởi thế nên phương-tiện
Vì chúng nói ba-thừa
Khiến cho các chúng-sanh
Rõ ba-cõi là khổ
Mở bày cùng diễn nói
Những đạo pháp xuất thế,
Các người con đó thảy
Nếu nơi tâm quyết định
Ðầy đủ ba món minh (13)
Và sáu món thần-thông (14)
Có người được Duyên-Giác
Hoặc bất thối Bồ-tát.
Xá-Lợi-Phất phải biết
Ta vì các chúng-sanh
Dùng món thí-dụ này
Ðể nói một Phật-thừa
Các ông nếu có thể
Tin nhận lời nói đây.
Tất cả người đều sẽ
Chứng thành quả Phật-đạo
31.- Phật-thừa đây vi-diệu
Rất thanh-tịnh thứ nhất
Ở trong các thế-giới
Không còn pháp nào trên
Của các Phật vui ưa,
Tất cả hàng chúng-sanh
Ðều phải nên khen ngợi
Và cúng-dàng lễ bái
Ðủ vô-lượng nghìn ức
Các trí-lực, giải-thoát
Thuyền-định và trí-tuệ
Cùng pháp khác của Phật
Chứng được thừa như thế
Khắp cho các con thảy
Ngày đêm cùng kiếp số
Thường được ngồi dạo chơi
Cho các hàng Bồ-tát
Cùng với chúng Thanh-Văn
Nương nơi thừa báu này
Mà thẳng đến đạo-tràng.
Vì bởi nhân-duyên đó
Tìm kỹ khắp mười-phương
Lại không thừa nào khác
Trừ Phật dùng phương-tiện
Bảo với Xá-Lợi-Phất!
Bọn ông các người thảy
Ðều là con của ta
Ta thời là cha lành.
Các ông trải nhiều kiếp
Bị các sự khổ đốt
Ta đều đã cứu vớt
Cho ra khỏi ba-cõi
Ta dầu ngày trước nói
Các ông được diệt-độ
Nhưng chỉ hết sanh-tử
Mà thực thời chẳng diệt.
Nay việc nên phải làm
Chỉ có trí-tuệ phật.
Nếu có Bồ-tát nào
Ở trong hàng chúng này
Có thể một lòng nghe
Pháp thực của các Phật,
Các đức Phật Thế-Tôn
Dầu dùng chước phương-tiện
Mà chúng-sanh được độ
Ðều là Bồ-tát cả
32.- Nếu có người trí nhỏ
Quá mê nơi ái-dục
Phật bèn vì bọn này
Mà nói lý khổ-đế,
Chúng-sanh nghe lòng mừng
Ðược điều chưa từng có
Ðức Phật nói khổ-đế
Chân thực không sai khác
Nếu lại có chúng-sanh
Không rõ biết gốc khổ
Quá say nơi khổ nhân
Chẳng tạm rời bỏ được
Phật vì hạng người này
Dùng phương-tiện nói dạy
Nguyên nhơn có các khổ
Tham dục là cội gốc
Nếu dứt được tham-dục
Khổ không chỗ nương đỗ
Dứt hết hẳn các khổ
Gọi là đế thứ ba
Vì chứng diệt-đế vậy
Mà tu hành đạo-đế
Lìa hết các khổ phược
Gọi đó là giải-thoát
Người đó nơi pháp gì
Mà nói được giải-thoát?
Chỉ xa rời hy-vọng
Gọi đó là giải-thoát
Kỳ thực chưa phải được
Giải-thoát hẳn tất cả
Ðức Phật nói người đó
Chưa phải thật diệt-độ
Vì người đó chưa được
Ðạo quả vô-thượng vậy.
Ý của ta không muốn
Cho đó đến diệt-độ,
Ta là đấng Pháp-Vương
Tự-tại nơi các Pháp
Vì an-ổn chúng-sinh
Nên hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất phải biết
Pháp-ấn của ta đây
Vì muốn làm lợi-ích
Cho thế-gian nên nói
Tại chỗ ông đi qua
Chớ có vọng tuyên-truyền.
Nếu có người nghe đến
Tùy-hỷ kính nhận lấy
Phải biết rằng người ấy
Là bậc bất-thối-chuyển
Nếu có người tin nhận
Kinh pháp vô-thượng này.
Thời người đó đã từng
Thấy các Phật quá-khứ
Cung-kính và cúng-dàng
Cũng được nghe pháp này.
Nếu người nào có thể
Tin chịu lời ông nói
Thời chính là thấy Ta
Cũng là thấy nơi ông
Cùng các chúng Tỷ-khiêu
Và các hàng Bồ-tát.
33.- Phật vì người trí sâu
nói kinh Pháp-Hoa này
Kẻ thức cạn nghe đến
Mê-lầm không hiểu được.
Tất cả hàng Thanh-Văn
Cùng với Tích-Chi-Phật
Ở trong kinh pháp này
Sức kia không hiểu được.
Chính ông Xá-Lợi-Phất
Hãy còn nơi kinh này
Dùng lòng tin được vào
Huống là Thanh-văn khác.
Bao nhiêu Thanh-Văn khác
Do tin theo lời Phật
Mà tùy thuận kinh này
Chẳng phải trí của mình.
34.- Lại này Xá-Lợi-Phất!
Kẻ kiêu-mạn biếng lười
Vọng so chấp lấy ngã
Chớ vì nói kinh này,
Hạng phàm-phu biết cạn
Quá mê năm món dục
Nghe pháp không hiểu được
Cũng chẳng nên vì nói.
Nếu có người không tin
Khinh hủy chê kinh này
Thời là dứt tất cả
Giống Phật ở thế-gian.
Nếu có người sịu mặt
Mà cưu lòng nghi-hoặc
Ông nên lóng nghe nói
Tội báo của người đó
Hoặc Phật còn tại-thế
Hoặc sau khi diệt-độ
Nếu có người chê bai
Kinh điển như thế này
Thấy có người đọc tụng
Biên chép thụ trì kinh
Rồi khinh tiện ghét ghen
Mà cưu lòng kết hờn
Tội báo của người đó
Ông nay lại lóng nghe.
Người đó khi mệnh-chung
Sa vào ngục A-tỳ
Ðầy đủ một kiếp chẵn
Kiếp mãn hết lại sinh
Cứ xoay vần như thế
Nhẫn đến vô-số kiếp.
Từ trong địa-ngục ra
Sẽ đọa vào súc-sinh,
Hoặc làm chó, dã-can
Thân-thể nó ốm gầy
Ðen điu thêm ghẻ lác
Bị người thường chọc ghẹo
Lại còn phải bị người
Gớm nhờm và ghét-rẻ
Thường ngày đói khát khổ
Xương thịt đều khô-khan,
Lúc sống chịu khổ sở
Chết bị ném ngói đá
Vì đoạn mất giống Phật
Nên thụ tội báo đó
Hoặc sinh làm lạc-đà
Hoặc sinh vào loài lừa
Thân thường mang kéo nặng
Lại thêm bị đánh đập
Chỉ nhớ tưởng: nước, cỏ
Ngoài ra không biết gì
Vì khinh chê kinh này
Mà mắc tội như vậy
Có khi làm dã-can
Ði vào trong xóm làng
Thân-thể đầy ghẻ lác
Lại chột hết một mắt
Bị bọn trẻ nhỏ vây
Theo đánh đập liệng ném
Chịu nhiều các đau khổ
Hoặc có lúc phải chết
Ở đây vừa chết rồi
Liền lại thụ thân rắn
Thân thể nó dài lớn
Ðến năm trăm do-tuần
Ðiếc ngây và không chân
Lăn lóc đi bằng bụng
Bị các loài trùng nhỏ
Cắn rúc ăn thịt máu
Bị khổ cả ngày đêm
Không tạm có ngừng nghỉ
Vì khinh chê kinh này
Mà mắc tội như vậy.
Nếu được sinh làm người
Các căn đều ám độn
Lùn xấu lại lệch què
Ðui điếc thêm lưng gù
Có nói ra lời gì
Mọi người không tin nhận
Hơi miệng thường hôi thối
Bị quỉ mỵ dựa nhập
Nghèo cùng rất hèn hạ
Bị người sai khiến luôn,
Nhiều bệnh thân ốm gầy
Không có chỗ cậy nhờ
Dù nương gần với người
Mà người chẳng để ý
Nếu có được điều chi
Thời liền lại quên mất,
Nếu học qua nghề thuốc
Theo đúng phép trị bịnh
Mà bệnh người nặng thêm
Hoặc có khi đến chết,
Nếu tự mình có bệnh
Không người chữa lành được
Dù có uống thuốc hay
Mà bệnh càng thêm nặng,
Hoặc người khác phản-nghịch
Cướp giật trộm lấy của
Các tội dường thế đó
Lại tự mang vạ lây.
Những người tội như đây
Trọn không thấy được Phật
Là vua trong hàng Thánh
Thường nói pháp giáo-hóa
Những người tội như đây
Thường sinh chỗ hoạn-nạn
Tâm cuồng-loạn, tai điếc
Trọn không nghe pháp được,
Trải qua vô-số kiếp
Như số cát sông Hằng
Sinh ra liền điếc câm
Các căn chẳng đầy đủ
Thường ở trong địa-ngục
Như dạo chơi vườn nhà,
Ở tại các đạo khác
Như ở nhà cửa mình
Lạc-đà, lừa, lợn, chó
Là chỗ kia thường đi
Vì khinh chê kinh này
Mắc tội dường thế đó.
Nếu được sinh làm người
Ðiếc, đui lại câm, ngọng
Nghèo cùng các tướng suy
Dùng đó tự trang-nghiêm.
Sưng bủng bệnh khô khát
Ghẻ, lác, cùng ung-thư
Các bệnh như trên đó
Dùng làm y-phục mặc,
Thân-thể thường hôi-hám
Nhơ-nhớp không hề sạch
Lòng chấp ngã sâu chặt
Thêm nhiều tính giận-hờn
Tình dâm-dục hẫy hừng
Ðến chẳng chừa cầm-thú,
Vì khinh chê kinh này
Mắc tội dường thế đó.
35.- Bảo cho Xá-Lợi-Phất!
Người khinh-chê kinh này
Nếu kể nói tội kia
Cùng kiếp cũng chẳng hết
Vì bởi nhân-duyên đó
Ta vẫn bảo các ông
Trong nhóm người vô-trí
Chớ nên nói kinh này
Nếu có người lợi-căn
Sức trí-tuệ sáng-láng
Học rộng và nhớ dai
Lòng mong cầu Phật-đạo
Những hạng người như thế
Mới nên vì đó nói
Nếu có người đã từng
Thấy trăm nghìn ức Phật
Trồng các cội đức lành
Thâm-tâm rất bền vững
Hạng người được như thế
Mới nên vì đó nói.
Nếu có người tinh-tấn
Thường tu tập lòng từ
Chẳng hề tiếc thân-mệnh
Mới nên vì đó nói
Nếu có người cung-kính
Không có sinh lòng khác
Lìa xa các phàm phu
Ở riêng trong núi chầm
Những hạng người như thế
Mới nên vì đó nói
Lại Xá-Lợi-Phất này!
Nếu thấy có người nào
Rời bỏ ác tri-thức
Gần-gũi bạn hiền-lành
Người được như thế ấy
Mới nên vì đó nói.
Nếu thấy hàng Phật-tử
Giữ giới hạnh trong sạch
Như minh-châu sáng sạch
Ham cầu kinh đại-thừa
Những người được như thế
Mới nên vì đó nói.
Nếu người không lòng giận
Chắc thực ý dịu-hòa
Thường thương xót mọi loài
Cung-kính các đức Phật
Hạng người tốt như thế
Mới nên vì đó nói.
Lại có hàng Phật-tử
Ở tại trong đại-chúng
Thuần dùng lòng thanh-tịnh
Các món nhân cùng duyên
Thí-dụ và lời lẽ
Nói pháp không chướng-ngại
Những người như thế ấy
Mới nên vì đó nói
Nếu có vị Tỷ-khiêu
Vì cầu nhất-thiết-trí
Khắp bốn phương cầu pháp
Chắp tay cung-kính thụ
Chỉ ưa muốn thụ-trì
Kinh-điển về đại-thừa
Nhẫn đến không hề thụ
Một bài kệ kinh khác
Hạng người được như thế
Mới nên vì đó nói.
Như có người chí tâm
Cầu Xá-Lợi của Phật
Cầu kinh cũng như thế
Ðược rồi đỉnh lễ thụ
Người đó chẳng còn lại
Có lòng cầu Kinh khác
Cũng chưa từng nghĩ tưởng
Ðến sách vở ngoại đạo
Người được như thế ấy
Mới nên vì đó nói.
Bảo cùng Xá-Lợi-Phất!
Ta nói các sự tướng
Của người cầu Phật-đạo
Cùng kiếp cũng chẳng hết
Những người như thế đó
Thời có thể tin hiểu
Ông nên vì họ nói
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa.
Phẩm 'Tín Giải' Thứ Tư
1.- Lúc bấy giờ, các Ngài Tuệ-Mệnh Tu-Bồ-Ðề, Ðại Ca-Chiên-Diên, Ðại Ca-Diếp, Ðại Mục-Kiền-Liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng có. Ðức Thế-Tôn dự ghi cho Ngài Xá-Lợi-Phất sẽ thành Vô-lượng chính-đẳng chính-giác, sinh lòng hi-hữu hớn-hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y-phục trịch bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chấp tay cúi mình cung-kính chiêm-ngưỡng dung-nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng: 'Chúng con ở đầu trong hàng Tăng, tuổi đều già lụn, tự cho đã được Niết-bàn không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn thẳng cầu thêm đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.'
Ðức Thế-Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi toà thân-thể mỏi-mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: không, vô-tướng, vô-tác, đối với các pháp du-hí thần-thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng-sinh của Bồ-tát, lòng chúng con không ưa thích.
Vì sao? Ðức Thế-Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi được chứng Niết-bàn, lại nay đây chúng con tuổi đã già nua ở nơi đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác của Phật dạy Bồ-tát không hề sinh một niệm ưa thích.
Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thụ-ký cho Thanh-Văn sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, lòng rất vui mừng được pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên được pháp hi-hữu, tự rất mừng may được lợi lành lớn, vô-lượng trân báu chẳng tìm cầu mà tự được.
2.- Thế-Tôn! chúng con hôm nay xin nói thí-dụ để chỉ rõ nghĩa đó.
Thí như có người tuổi thơ bé, bỏ cha chốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đã lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, giong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ về bổn-quốc.
Người cha từ trước đến nay, tìm con không được bèn ở lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông giầu lớn của báu vô-lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu-ly, san-hô, hổ-phách, pha-lê, châu v.v... thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại dân rất đông, voi, ngựa, xe cộ bò dê nhiều vô-số. Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.
Bấy giờ, gã nghèo kia dạo đến các tụ-lạc, trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở.
Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái, một mai mà chết mất thời của cải tản thất không người giao phó. Cho nên ân-cần nhớ luôn đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp được con ủy-phó của cải, thản nhiên khoái-lạc không còn sầu lo.
3.- Thưa Thế-Tôn! Bấy giờ gã cùng-tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư-tử, ghế báu đỡ chân, các hàng Bà-la-môn, sát-đế-lợi, cư-sĩ đều cung-kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuổi ngọc chân-châu giá trị nghìn vạn để trang-nghiêm, kẻ lại-dân tôi-tớ tay cầm phất-trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những phan đẹp thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy, cho v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, uy-đức rất tôn-trọng.
Gã cùng-tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh lòng lo sợ, hối-hận về việc đến nhà này, nó thầm nghĩ rằng: 'Ông này chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải là chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật.
Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức dễ được đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm'. Gã nghĩ như thế rồi, liền chạy mau đi thẳng.
4.- Khi đó, ông Trưởng-giả ngồi nơi tòa sư-tử thấy con bèn nhớ biết, lòng rất vui mừng mà tự nghĩ rằng: 'Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó rồi, ta thường nghĩ nhớ đứa con này làm sao gặp được, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta dầu tuổi già có vẫn tham tiếc'. Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại.
Lúc ấy, kẻ sứ-giả chạy mau qua bắt, gã cùng-tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: 'Tôi không hề xúc phạm, nhân sao lại bị bắt?' Kẻ sứ-giả bắt đó càng gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó gã cùng-tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại càng sợ-sệt mê ngất ngã xuống đất.
Người cha xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ-giả rằng: 'Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại đừng nói chi với nó'.
Vì sao? Cha biết con mình chí ý hạ-liệt, tự biết mình giầu sang làm khiếp sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương-tiện chẳng nói với người khác biết là con mình. Kẻ sứ-giả nói với cùng-tử: 'Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ý'.
Gã cùng-tử vui mừng được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc.
5.- Bấy giờ ông Trưởng-giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước phương-tiện, mật sai hai người, hình sắc tiều tụy không có uy-đức: 'Hai người nên qua xóm kia từ từ nói với gã cùng-tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gã cùng-tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm gì? Thời nên nói với nó rằng: 'Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung nhau làm.' Khi đó hai người sứ liền tìm gã cùng-tử, rồi thuật đủ việc như trên.
5.- Bấy giờ gã cùng-tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót và quái lạ. Lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm-o tiều-tụy, phân đất bụi-bặm dơ-dáy không sạch. Ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn-màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: 'Các ngươi phải siêng làm việc chớ nên lười nghỉ!' Dùng phương-tiện đó được đến gần người con.
Lúc sau lại bảo con rằng: 'Gã nam-tử này! Ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi; những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu cần ta cấp cho, nên phải an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo'.
Vì sao? Vì ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường trong lúc làm việc không lòng dối khi trễ nải giận hờn nói lời thán oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con đẻ của ta. Tức thời Trưởng-giả lại đặt tên cho cùng-tử gọi đó là 'con'.
Khi đó gã cùng-tử, dầu mừng việc tình cờ đó song vẫn còn tự cho mình là khách, là người làm công hèn, vì cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau đó lòng gã mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gã ở cũng vẫn nguyên chỗ cũ.
7.- Thế-Tôn! Bấy giờ Trưởng-giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng-tử rằng: 'Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân, báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta.
Vì sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ để sót mất'.
Khi ấy cùng-tử liền nhận lời bảo-lãnh biết các của vật, vàng, bạc, trân, báu và các kho tàng, mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ-liệt cũng chưa bỏ được.
8.- Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông-thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Ðến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc-vương, quan đại-thần, dòng sát-lợi, hàng cư-sĩ, khi đã nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng: 'Các ngài nên rõ, người này là con ta, của ta sinh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thực là con ta, ta thực là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết.'
Thế-Tôn! Khi đó gả cùng-tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: 'Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến'.
9.- Thế-Tôn! Ông phú Trưởng-giả đó là đức Như-Lai, còn chúng con đều giống như con của Phật. Ðức Như-Lai thường nói chúng con là con.
Thưa Thế-Tôn! Chúng con vì ba món khổ (16) nên ở trong sinh-tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp tiểu-thừa. Ngày nay đức Thế-Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hí-luận (17). Chúng con ở trong đó siêng gắng tinh-tấn được đến Niết-bàn, cái giá một ngày. Ðã được đây rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: Ở trong pháp của Phật; do siêng-năng tinh-tấn nên chỗ được rộng nhiều.
Nhưng đức Thế-Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu-thừa, chúng con bèn bị Phật buông bỏ chẳng vì phân-biệt rằng: Các ông sẽ có phần bảo tàng tri-kiến của Như-Lai.
Ðức Thế-Tôn dùng sức phương-tiện nói bày trí-tuệ của Như-Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày, cho là nhiều rồi, đối với pháp đại-thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhân trí tuệ của Phật, vì các vị Bồ-tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi pháp đó.
Vì sao? Ðức Phật biết chúng con ưa nơi pháp tiểu-thừa, nên dùng sức phương-tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thực là Phật-tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế-Tôn ở nơi trí-tuệ của Phật không có lẫn tiếc.
Vì sao? Chúng con từ xưa đến nay thực là Phật-tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu-thừa, nếu chúng con có tâm ham đại-thừa, thời Phật vì chúng con mà nói pháp đại-thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp nhất-thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-tát chê trách Thanh-Văn ham pháp tiểu-thừa.
Nhưng đức Phật thực dùng đại-thừa để giáo-hóa, vì thế nên chúng con nói vốn không có lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp-vương tự-nhiên đến, như chỗ nên được của Phật-tử đều đã được có.
Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-Diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
10.- Chúng con ngày hôm nay
Nghe âm-giáo của Phật
Lòng hớn-hở mừng rỡ
Ðược pháp chưa từng có.
Phật nói hàng Thanh-Văn
Sẽ được thành quả Phật
Ðống châu báu vô-thượng
Chẳng cầu tự-nhiên được.
Ví như gã đồng-tử
Thơ bé không hiểu biết
Bỏ cha trốn chạy đi
Ðến cõi nước xa khác
Nổi trôi khắp nước ngoài
Hơn năm mươi năm dài
Cha gã lòng buồn nhớ
Kiếm tìm khắp bốn phương
Kiếm tìm đó đã mỏi
Liền ở lại một thành
Xây dựng nên nhà cửa
Năm món dục tự vui.
Nhà ông giầu có lớn
Nhiều những kho vàng, bạc
Xa-cừ, ngọc mã-não
Chân châu, ngọc lưu-ly
Voi ngựa cùng trâu dê
Kiệu, cán đủ xe cộ
Ruộng đất và tôi tớ
Nhân dân rất đông nhiều
Xuất nhập thâu lời lãi
Bèn khắp đến nước khác
Khách thương người buôn bán
Không xứ nào không có,
Nghìn muôn ức chúng hội
Vây quanh cung kính ông,
Thường được bậc vua chúa
Mến yêu nhớ tưởng đến,
Các quan, hạng hào tộc
Ðều cũng đồng tôn trọng
Vì có các sự duyên
Người tới lui rất đông,
Giầu mạnh như thế đó
Có thế lực rất lớn
Mà tuổi đã già nua
Lại càng buồn nhớ con
Ngày đêm luống suy nghĩ
Giờ chết toan sắp đến
Con thơ dại bỏ ta
Hơn năm mươi năm tròn,
Các của vật kho tàng
Sẽ phải làm thế nào?
11.- Bấy giờ gã cùng-tử
Ði tìm cầu ăn mặc
Ấp này đến ấp khác
Nước này sang nước nọ,
Hoặc có khi được của
Hoặc có khi không được,
Ðói thiếu hình gầy gò
Thân-thể sanh ghẻ lác.
Lần lựa đi trải qua
Ðến thành cha gã ở
Xoay vần làm thuê mướn
Bèn đến trước nhà cha.
Lúc ấy ông Trưởng-giả
Ðang ở trong nhà ông
Giăng màn châu báu lớn
Ngồi tòa sư-tử cao
Hàng quyến thuộc vây quanh
Ðông người đứng hầu hạ,
Hoặc có người tính toán
Vàng, bạc, cùng vật báu
Của cải ra hoặc vào
Biên chép ghi giấy tờ.
Gã cùng-tử thấy cha
Quá mạnh giầu tôn nghiêm
Cho là vị quốc-vương
Hoặc là đồng bậc vua,
Kinh sợ tự trách thầm
Tại sao lại đến đây?
Lại thầm tự nghĩ rằng:
Nếu ta đứng đây lâu
Hoặc sẽ bị bức ngặt
Ép buộc sai khiến làm.
Suy-nghĩ thế đó rồi
Rảo chạy mà đi thẳng
Hỏi thăm xóm nghèo-nàn
Muốn qua làm thuê mướn.
12.- Lúc bấy giờ Trưởng-giả
Ngồi trên tòa sư-tử
Xa trông thấy con mình
Thầm lặng mà ghi nhớ,
Ông liền bảo kẻ sứ
Ðuổi theo bắt đem về.
Gã cùng-tử sợ kêu
Mê ngất ngã trên đất
Người này theo bắt tôi
Chắc sẽ bị giết chết
Cần gì đồ ăn mặc
Khiến tôi đến thế này!
Trưởng-giả biết con mình
Ngu dại lòng hẹp hèn
Chẳng chịu tin lời ta
Chẳng tin ta là cha
Ông liền dùng phương-tiện
Lại sai hai người khác
Mắt chột, thân lùn xấu
Hạng không có uy-đức!
Các người nên bảo nó
Rằng ta sẽ thuê nó
Hốt dọn các phân nhơ
Trả giá bội cho nó.
Gã cùng-tử nghe rồi
Vui mừng theo sứ về
Vì dọn các phân nhơ
Sạch sẽ các phòng nhà
Trưởng-giả trong cửa sổ
Thường ngó thấy con mình
Nghĩ con mình ngu dại
Ưa thích làm việc hèn.
Lúc đó ông Trưởng-giả
Mặc y-phục cũ rách
Tay cầm đồ hốt phân
Qua đến chỗ con làm
Phương-tiện lần gần-gũi
Bảo-rằng: rán siêng làm!
Ðã thêm giá cho ngươi
Và cho dầu thoa chân
Ðồ ăn uống đầy đủ
Thêm đệm chiếu đầy ấm
Cặn kẽ nói thế này:
Ngươi nên siêng làm việc!
Rồi lại dịu-dàng bảo
Như con thực của ta.
13.- Ông Trưởng-giả có trí
Lần lần cho ra vào
Trải qua hai mươi năm
Coi sóc việc trong nhà,
Chỉ cho biết vàng, bạc,
Ngọc trân-châu, pha-lê
Các vật ra hoặc vào
Ðều khiến gã biết rõ.
Gã vẫn ở ngoài cửa
Nương-náu nơi am tranh
Tự nghĩ phận nghèo-nàn
Ta không có vật đó.
Cha biết lòng con mình
Lần lần đã rộng lớn
Muốn giao tài vật cho
Liền nhóm cả thân-tộc
Quốc-vương các đại-thần
Hàng Sát-Lợi, cư-sĩ
Rồi ở trong chúng này
Tuyên nói chính con ta
Bỏ ta đi nước khác
Trải hơn năm mươi năm,
Từ gặp con đến nay
Ðã hai mươi năm rồi
Ngày trước ở thành kia
Mà mất đứa con này
Ta đi tìm khắp nơi
Bèn đến ngụ nơi đây
Phàm của-cải ta có
Nhà cửa cùng nhân-dân
Thảy đều phó cho nó
Mặc tình nó tiêu dùng.
Người con nhớ xưa nghèo
Chí ý rất kém hèn
Nay ở nơi cha mình
Ðược quá nhiều châu-báu
Và cùng với nhà cửa
Gồm tất cả tài vật,
Lòng rất đỗi vui mừng
Ðược điều chưa từng có.
14.- Ðức Phật cũng như thế
Biết con ưa tiểu-thừa
Nên chưa từng nói rằng
Các ngươi sẽ thành Phật
Mà chỉ nói chúng con
Ðược có đức vô-lậu
Trọn nên quả tiểu-thừa
Hàng Thanh-Văn đệ-tử
Ðức Phật bảo chúng con
Nói đạo pháp tối-thượng
Người tu-tập pháp này
Sẽ được thành Phật quả
Chúng con vâng lời Phật
Vì các Bồ-Tát lớn
Dùng các món nhân-duyên
Cùng các món thí dụ
Bao nhiêu lời-lẽ hay
Ðể nói đạo Vô-thượng.
Các hàng Phật-tử thảy
Từ nơi con nghe pháp
Ngày đêm thường suy-gẫm
Tinh-tấn siêng tu-tập.
Bấy-giờ các đức Phật
Liền thụ-ký cho kia:
Các ông ở đời sau
Sẽ được thành Phật-đạo.
Pháp mầu rất bí tàng
Của tất cả các Phật
Chỉ để vì Bồ-tát
Mà dạy việc thực đó,
Nhưng chẳng vì chúng con
Nói pháp chân yếu này
Như gã cùng-tử kia
Ðược gần bên người cha
Dầu lãnh biết các vật
Nhưng lòng chẳng mong cầu,
Chúng con dầu diễn nói
Tạng pháp báu của Phật
Tự mình không chí-nguyện
Cũng lại như thế đó.
15.- Chúng con diệt bề trong (18)
Tự cho là đã đủ
Chỉ xong được việc này
Lại không biết việc khác.
Chúng con dầu có nghe
Pháp tịnh cõi nước Phật
Cùng giáo-hóa chúng-sinh
Ðều không lòng ưa vui.
Như thế là vì sao?
Vì tất cả các pháp
Thảy đều là không lặng
Không sinh cũng không diệt
Không lớn cũng không nhỏ
Vô-lậu và vô-vi,
Suy nghĩ thế đó rồi
Chẳng sinh lòng ưa muốn.
Chúng con đã từ lâu
Ðối với trí-huệ Phật
Không tham không ưa thích
Không lại có chí-nguyện,
Mà đối với pháp mình
Cho đó là rốt-ráo.
Chúng con từ lâu nay
Chuyên tu-tập pháp không
Ðược thoát khỏi hoạn-nạn
Khổ não của ba cõi
Trụ trong thân rốt sau
Hữu-dư-y Niết-bàn (19)
Ðức Phật dạy bảo ra
Chứng được đạo chẳng luống
Thời là đã có thể
Báo được ơn của Phật.
Chúng con dầu lại vì
Các hàng Phật-tử thảy
Tuyên nói pháp Bồ-tát
Ðể cầu chứng Phật-đạo
Mà mình đối pháp đó
Trọn không lòng ham muốn
Ðấng Ðạo-sư buông bỏ
Vì xem biết lòng con
Ban đầu không khuyên gắng
Nói những lời có thực
Như ông Trưởng-giả giầu
Biết con chí kém hèn
Bèn dùng sức phương-tiện
Ðể hoà phục tâm con
Vậy sau mới giao phó
Tất cả tài vật báu
Ðức Phật cũng thế đó
Hiện ra việc ít có
Biết con ưa tiểu-thừa
Bèn dùng sức phương-tiện
Ðiều phục tâm của con
Rồi mới dạy trí lớn.
Chúng con ngày hôm nay
Ðược pháp chưa từng có
Chẳng phải chỗ trước mong
Mà nay tự-nhiên được
Như gã cùng-tử kia
Ðược vô-lượng của báu
16.- Thế-Tôn! Chúng con nay
Ðược đạo và chứng quả
Ở nơi pháp vô-lậu
Ðược tuệ-nhãn thanh-tịnh
Chúng con từ lâu nay
Gìn tịnh-giới Phật chế
Mới ở ngày hôm nay
Ðược hưởng quả báo đó,
Trong pháp của Pháp-Vương
Lâu tu-hành phạm-hạnh
Ngày nay được vô-lậu
Quả báo lớn vô-thượng
Chúng con ngày hôm nay
Mới thực là Thanh-văn
Ðem tiếng đạo của Phật
Cho tất cả đều nghe
Chúng con ngày hôm nay
Thực là A-La-Hán
Ở nơi các thế-gian
Trời, người và ma, phạm,
Khắp ở trong chúng đó
Ðáng lãnh của cúng-dàng
Ơn lớn của Thế-Tôn
Ðem việc ít có này
Thương xót dạy bảo cho
Làm lợi-ích chúng con
Trải vô-lượng ức kiếp
Ai có thể đền được.
Tay lẫn chân cung cấp
Ðầu đỉnh lễ cung-kính
Tất cả đều cúng-dàng
Ðều không thể đền được.
Hoặc dùng đầu đội Phật
Hai vai cùng cõng vác
Trong kiếp số hằng-sa
Tận tâm mà cung-kính,
Lại đem dưng đồ ngon
Y phục báu vô-lượng
Và các thứ đồ nằm
Cùng các món thuốc thang
Gỗ ngưu-đầu chiên-đàn
Và các vật trân-báu
Ðể dựng xây tháp miếu
Y báu lót trên đất
Như các việc trên đây
Ðem dùng cúng-dàng Phật
Trải kiếp số hằng-sa
Cũng không đền đáp được.
Các Phật thật ít có
Ðấng vô-lượng vô-biên
Ðến bất khả tư nghì
Ðủ sức thần-thông lớn,
Bậc vô-lậu vô-vi
Là vua của các Pháp
Hay vì kẻ hạ liệt
Nhẫn việc cao-thượng đó,
Hiện lấy tướng phàm-phu
Tùy cơ nghi dạy nói
Các Phật ở nơi pháp
Ðược sức rất tự-tại
Biết các hàng chúng-sinh
Có những điều ưa muốn
Và chí lực của nó
Theo sức nó kham nhiệm
Dùng vô-lượng thí-dụ
Mà vì chúng nói pháp
Tùy theo các chúng-sinh
Trồng căn lành đời trước
Lại biết đã thành thục
Hay là chưa thành thục
Suy lường những điều đó
Phân biệt biết rõ rồi
Ở nơi đạo nhất-thừa
Tùy cơ nghi nói ba.
____________
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
_________________
QUYỂN THỨ HAI
________
Bậc thượng căn lãnh ngộ, hàng trung hạ nổi nghi, mở quyền bày thực hội ba thời. Pháp mầu tuyệt sự nói suy, của báu không riêng tư, toàn giao phó cho con nhà.
Nam-mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)
Ðức Như-Lai dụ nói ba cõi làm nhà, ngoài cửa ba cõi bày ba thứ xe, các con đua giành ồn-ào, Trưởng-giả mừng khoe, thụ-ký quả Phật không sai.
Nam-mô Vị-Lai Hoa-Quang Phật. (3 lần)
THÍCH NGHĨA
(1 ) LẬU TẬN: Nhiễm tâm phiền-não đã hết sạch, đồng nghĩa với: 'vô-lậu'.
(2 ) Thân Phật sắc vàng tử-kim đủ 32 tướng tốt.
(3 ) Trí của Phật có 10 lực dụng:
1. Thị-xứ phi-xứ trí-lực,
2. Nghiệp trí-lực,
3. Thuyền-định trí-lực,
4. Căn-tính trí-lực,
5. Nguyện dục trí-lực,
6. Giới trí-lực,
7. Ðạo chí xử trí-lực,
8. Túc-mệnh trí-lực,
9. Thiên-nhãn trí-lực,
10. Lậu-tận trí-lực.
(4 ) BẤT CộNG: Bồ-tát cùng Thanh-văn Duyên-giác đều không có, riêng Phật là có 18 pháp này.
(5 ) BỒ-TÁT: 'Bồ-đề': Giác; 'tát đõa': Hữu-tình; nói tắt là Bồ-tát, tức là bậc đã tự hay giác-ngộ và có thể
cứu độ giác ngộ loài hữu tình.
(6 ) Tức là Bà-la-môn.
(7 ) Tên của Ma-Vương ở đầu cõi dục.
(8 ) NGŨ UẨN: Sắc uẩn, thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Cũng gọi là ngũ ấm.
(9 ) NGŨ DụC: 1. Tài (sắc), sắc, danh, thực (sự ăn), thùy (ngủ nghỉ). 2. Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(10) Bốn đức vô-sở-úy của Phật:
1. Nhất-thiết-trí vô-úy,
2. Lậu tận vô-úy,
3. Thuyết đạo vô-úy,
4. Thuyết khổ tận đạo vô-úy.
(11) NĂM CĂN: Tín căn, tinh-tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. NĂM LỰC: tín lực, tinh tấn lực, niệm
lực, định lực, tuệ lực. BẨY GIÁC CHI: Trạch pháp, niệm, tinh tấn, hỉ, khinh an, định, xả. TÁM
CHÍNH ÐẠO: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính niệm, chính
Tinh tấn, chính định.
(12) Súy: Cú tai mèo; Hiêu, Ðiêu, Thứu: Loài chim dữ, tiếng xấu.
THƯỚC: Chim khách.
CƯU: Tu-hú.
CÁP: Bồ câu.
NGOAN-XÀ: Rắn độc.
PHÚC-YẾT: Bò-cạp.
NGÒ-CÒNG: Rít.
DO-DIÊN: Trùng, rận ở trong áo tơi.
DỨU -LY: Chồn, cáo.
H"-THỬ: Giống chuột.
KHƯƠNG-LƯƠNG: Bọ hung.
(13) Thiên-nhãn minh, Túc-mệnh minh, Lậu-tận minh.
(14) Thiên-nhãn thông, thần-túc thông, thiên-nhĩ thông, tha-tâm thông, túc-mệnh thông, lậu-tận thông.
(15) TIN: lòng tin.
(16) Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.
(17) HÍ-LUẬN: Lời luận nói suông không sự thực, đồng nghĩa với Hư-vọng.
(18) Diệt lòng phiền-não: 1. Kiến sở đoạn 2. Tư sở đoạn.
(19) NIẾT-BÀN: Tịch tịnh; viên tịch, nghĩa là vắng bặt. Còn vọng động phiền-não là còn tạo nghiệp thự báo
sanh-tử. Dứt hẳn vọng động phiền-não khỏi báo sanh-tử yên lặng nhàn vui nên gọi Niết-bàn.
HỮU-DƯ Y: Thân người hiện còn thừa lại rốt sau cả.
SỰ-TÍCH TẢ KINH THOÁT KHỔ
Nhà Ðường, niên-hiệu Long-sóc năm thứ ba, xứ Trường-An, mẹ vợ ông Lưu-Công-Tín chết.
Không bao lâu cô họ Trần, vợ ông Tín, cũng bỗng chết, thần-hồn đi đến một ngục đá, thấy mẹ mình ở trong cửa đá thụ nhiều sự khổ.
Khóc bảo con gái rằng: 'Mau vì mẹ tả một bộ kinh Pháp-Hoa ngõ hầu thoát khỏi tội này'. Nói vừa xong cửa đá liền khép lại.
Cô họ Trần sống lại, thuật chuyện gặp mẹ với chồng. Ông Tín nhờ ông Triệu-Sư-Tử tả kinh, ông Triệu bèn đem một bộ kinh Pháp-Hoa hiện đã thành tả rất tốt giao cho ông Tín sửa sang, mà bộ kinh đó vốn là của một người họ Phạm ra tiền mướn tả, mà ông Tín thực chưa biết cũng tin là ông Triệu tả cho mình.
Không bao lâu, cô họ Trần lại nằm chiêm bao thấy mẹ đòi kinh, cô nói rằng đã tả xong rồi. Mẹ liền khóc rằng: 'Mẹ chính vì bộ kinh đó mà càng bị khổ thêm. Bộ kinh đó vốn là nhà của họ Phạm tu phước, sao lại cướp làm công của mình?' 'Sau khi thức dậy, cô Trần và ông Tín đi hỏi thăm lại, thời quả thực họ Phạm ra hai trăm tả kinh mà chính là bộ trên đó.
Vợ chồng liền thuê người tả một bộ khác để cúng-dàng hồi-hướng công-đức cho mẹ.
Than-ôi! Công-đức tả kinh hay ấn tống lớn biết là dường nào? tội nặng bị khổ ở địa-ngục nhờ người tả một bộ kinh Pháp-Hoa mà còn có đủ phước để thoát khổ huống nữa là mình tự ra công tiền ư!
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
KINH
Diệu Pháp Liên Hoa
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dịch từ Hoa văn sang tiếng Việt
5. Dược thảo dụ phẩm |
6. Thọ ký phẩm |
7. Hóa thành dụ phẩm |
Quyển Thứ Ba
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Dược Thảo Dụ' Thứ Năm
1. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-Ha Ca-Diếp các vị đại đệ tử: "Hay thay! Hay thay! Ca Diếp. Khéo nói đặng công-đức chơn thật của đức Như Lai. Ðúng như lời các ông vừa nói; đức Như-Lai lại còn có vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được".
Ca Diếp nên biết! Ðức Như Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng sức trí huệ phuơng-tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói thảy đều đến bực nhứt thiết trí (1). Ðức Như-Lai xem biết chỗ quy thú (2) của tất cả pháp; cũng rõ biết chỗ tâm sở hành (3) của tất cả chúng sanh không thấu không ngại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rõ biết hết, chỉ bày tất cả trí-huệ cho các chúng sanh.
2.- Ca Diếp! Thí như trong cõi Tam Thiên đại thiên nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cõi tam-thiên đại-thiên (4) đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm, cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ gốc bực vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.
Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng trung hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏđặng sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.
3.- Ca Diếp nên biết! Ðức Như Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế-giới cả trời, người, a-tu-la, như mây lớn kia trùm khắp cõi nước tam-thiên đại-thiên. Phật ở trong đại chúng mà xướng lời nầy:
"Ta là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết Bàn thời làm cho chứng Niết Bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bực nhứt thiết trí, bực nhứt thiết kiến, là bực tri đạo, bực khai đạo, bực thuyết đạo. Các ngươi, hàng trời, người, a-tu-la đều nên đến đây vì để nghe pháp vậy ."
Bấy giờ có vô số nghìn muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ đức Như Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải-đãi của chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà vì chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng đặng nhiều lợi lành. Các chúng sanh nầy nghe pháp rồi, hiện đời an-ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng vui và cũng được thọ hưởng vui và cũng được nghe pháp, đã nghe pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại ở trong các pháp theo sức mình kham được lần lần đều được vào đạo.
Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.
Ðức Như Lai nói pháp một tướng một vị, nghĩa là: tướng giải-thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến bực "nhứt thiết chủng trí ". Có chúng sanh nào nghe pháp của Như Lai hoặc thọ trì đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công-đức tự mình không hay biết.
Vì sao? Vì chỉ có Như-Lai là biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó: Nhớ việc gì? Nghĩ việc gì? Tu việc gì? Nhớ thế nào? Nghĩ thế nào? Tu thế nào?
Dùng pháp gì để nhớ? Dùng pháp gì để nghĩ? Dùng pháp gì để tu? Dùng pháp gì đặng pháp gì?
Chúng sanh ở nơi các bực, chỉ có Ðức Như-Lai thấy đó đúng như thật, rõ ràng không bị ngại . Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng trung hạ của nó.
Ðức Như Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là: tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết Bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt dìu nó, cho nên chẳng liền vì chúng vội nói " nhứt thiết chủng trí. "
Ca Diếp! Các ông rất là hi hữu, có thể biết rõ đức Như Lai tùy cơ nghi nói pháp, hay tin hay nhận. Vì sao? Vì các đức Phật Thế Tôn tùy cơ nghi nói pháp khó hiểu khó biết.
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
4.ớ Pháp Vương phá các cõi
Hiện ra trong thế-gianTheo tánh của chúng sanhDùng các cách nói phápÐức Như Lai tôn-trọngTrí huệ rất sâu xaLâu giữ pháp yếu nàyChẳng vội liền nói raNgười trí nếu được ngheThời có thể tin hiểu,Kẻ không trí nghi hốiThời bèn là mất hẳn.Ca Diếp! Vì cớ đóTheo sức chúng nói phápDùng các món nhơn duyênCho chúng đặng Chánh KiếnCa Diếp ông nên biếtThí như vừng mây lớnNổi lên trong thế gianChe trùm khắp tất cảMây trí huệ chứa nhuầnChớp nhoáng sáng chói lòaTiếng sấm xa vang độngKhiến mọi loài vui đẹpNhựt quang bị che khuấtTrên mặt đất mát mẻMây mù sa bủa gầnDường có thể nắm tới.Trận mưa đó khắp cùngBốn phương đều xối xuốngDòng nước tuôn vô lượngCõi đất đều rút đầyNơi núi sông hang hiểmChỗ rậm rợp sanh raNhững cây cối cỏ thuốcCác thứ cây lớn nhỏTrăm giống lúa mộng mạCác thứ mía cùng nhoNhờ nước mưa đượm nhuầnThảy đều tươi tốt cả.Ðất khô khắp được rướiThuốc cây đều sum sêVừng mây kia mưa xuốngNước mưa thuần một vịMà cỏ cây lùm rừngTất cả các giống câyHạng thượng trung cùng hạXứng theo tánh lớn nhỏÐều đặng sanh trưởng cả.Gốc thân nhánh và láTrổ bông trái sắc vàngMột trận mưa rưới đếnCây cỏ đều thấm mướtTheo thể tướng của nóTánh loại chia lớn nhỏNước đượm nhuần vẫn mộtMà đều được sum sê.
5.- Ðức Phật cũng như thế
Hiện ra nơi trong đờiVí như vầng mây lớnChe trùm khắp tất cảÐã hiện ra trong đờiBèn vì các chúng sanhPhân biệt diễn nói bàyNghĩa thật của các phápÐấng Ðại Thánh Thế TônỞ trong hàng trời ngườiNơi tất cả chúng hộiMà tuyên nói lời nầy:Ta là bậc Như LaiLà Ðấng lưỡng Túc Tôn (5)Hiện ra nơi trong đờiDường như vừng mây lớnThấm nhuần khắp tất cảNhững chúng sanh khô khaoÐều làm cho lìa khổÐặng an ổn vui sướngHưởng sự vui thế gianCùng sự vui Niết Bàn.Các chúng trời người nầyMột lòng khéo lóng ngheÐều nên đến cả đâyRa mắt đấng vô thượng.Ta là đấng Thế TônKhông có ai bằng đượcMuốn an ổn chúng sanhNên hiện ra trong đờiVì các đại chúng nóiPháp cam lồ trong sạchPháp đó thuần một vịGiải thoát Niết Bàn thôi.Dùng một giọng tiếng mầuDiễn xướng nghĩa nhiệm nầyÐều thường vì Ðại ThừaMà kết làm nhơn duyên.Ta xem tất cả chúngKhắp đều bình đẳng cảKhông có lòng bỉ thửCũng không có hạn ngạiHằng vì tất cả chúngMà bình-đẳng nói phápNhư khi vì một ngườiLúc chúng đông cũng vậy.Thường diễn nói pháp luônTừng không việc gì khácNgồi, đứng, hoặc đến, điTrọn không hề nhàm mỏiÐầy đủ cho thế gianNhư mưa khắp thấm nhuầnSang hèn cùng thượng hạGiữ giới hay phá giớiOai nghi được đầy đủVà chẳng được đầy đủNgười chánh kiến tà kiếnKẻ độn căn lợi cănKhắp rưới cho mưa phápMà không chút nhàm mỏi .Tất cả hàng chúng sanhÐược nghe pháp của taTùy sức mình lãnh lấyTrụ ở các nơi các bựcHoặc là ở trời, ngườiLàm Chuyển Luân Thánh VươngTrời Thích, Phạm, các vuaÐó là cỏ thuốc nhỏHoặc rõ pháp vô lậuHay chứng đặng Niết BànKhởi sáu pháp thần thôngVà đặng ba món minhỞ riêng trong núi rừngThường hành môn thiền địnhChứng đặng bực Duyên GiácLà cỏ thuốc bực trung.Hoặc cầu bực Thế TônTa sẽ đặng thành PhậtTu hành tinh tấn, địnhLà cỏ thuốc bực thượngLại có hàng Phật tửChuyên tâm nơi Phật đạoThường thật hành từ-biTự biết mình làm PhậtQuyết định không còn nghiGọi đó là cây nhỏ.Hoặc an trụ thần thôngChuyển bất thối pháp luânÐộ vô lượng muôn ứcTrăm nghìn loài chúng sanhBồ Tát hạng như thếGọi đó là cây lớn.Phật chỉ bình đẳng nóiNhư nước mưa một vịTheo căn tánh chúng sanhMà hưởng thọ không đồngNhư những cỏ cây kiaÐược đượm nhuần đều khác
6.- Phật dùng món dụ nầy
Ðể phương tiện chỉ bàyCác thứ lời lẽ hayÐều diễn nói một phápỞ nơi trí huệ PhậtNhư một giọt trong biển.Ta rưới trận mưa phápÐầy đủ khắp thế gianPháp mầu thuần một vịTùy sức riêng tu hành,Như thể lùm rừng kiaVà cỏ thuốc những câyTùy giống lớn hay nhỏLần lần thêm sum sêPháp của các đức PhậtThường dùng thuần một vịKhiến cho các thế gianÐều khắp đặng đầy đủLần lựa siêng tu hànhRồi đều đặng đạo quả.Hàng Thanh Văn, Duyên Giác,Ở nơi chốn núi rừng,Trụ thân hình rốt sauNghe Phật pháp đặng quảNếu các vị Bồ TátTrí huệ rất vững bềnRõ suốt cả ba cõiCầu đặng thừa tốI thượngÐó gọi là cây nhỏMà đặng thêm lớn tốt.Lại có vị trụ thiềnÐặng sức thần thông lớnNghe nói các pháp khôngLòng rất sanh vui mừngPhóng vô số hào quangÐộ các loài chúng sanhÐó gọi là cây lớnMà đặng thêm lớn tốtNhư thế, Ca Diếp này!Ðức Phật nói pháp raThí như vừng mây lớnDùng nước mưa một vịÐượm nhuần nơi hoa ngườiÐều đặng kết trái cả .Ca Diếp ông phải biếtTa dùng các nhơn duyênCác món thí dụ thảyÐể chỉ bày đạo PhậtÐó là ta phương tiệnCác đức Phật cũng thếNay ta vì các ôngNói việc rất chơn thiệtCác chúng thuộc Thanh VănÐều chẳng phải diệt độChỗ các ông tu hànhLà đạo của Bồ TátLần lần tu học xongThảy đều sẽ thành Phật.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Thọ Ký' Thứ Sáu
1. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng xướng lời thế nầy: Ông Ma Ha Ca Diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các đức Thế Tôn, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, rộng nói vô lượng đại pháp của các đức Phật, ở nơi thân rốt sau đặng thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh-Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Nước tên là Quang Ðức, kiếp tên là Ðại Trang Nghiêm Phật thọ mười hai tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp, không có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc cùng đồ tiện lợi chẳng sạch. Cõi đó bằng thẳng không có cao thấp hầm hố gò nổng, đất bằng lưu ly, cây báu thẳng giăng bên đường, rải các hoa báu khắp nơi sạch sẽ.
Bồ Tát trong nước đó đông vô lượng nghìn ức, các chúng Thanh Văn cũng lại vô số. Không có việc ma, dầu là có ma và dân ma, nhưng đều hộ trì Phật Pháp.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2.ớ Bảo các Tỳ Kheo rằng:
Ta dùng mắt của PhậtThấy ông Ca Diếp nầyỞ nơi đời vị laiQuá vô số kiếp sauSẽ đặng thành quả Phật,Mà ở đời vị laiCúng dường và kính thờÐủ ba trăm muôn ứcCác đức Phật Thế Tôn.Vì cầu trí huệ PhậtMà tịnh tu phạm hạnhCúng dường đấng Tối ThượngNhị Túc Tôn xong rồiTu tập trọn tất cảTrí huệ bực vô thượngỞ nơi thân rốt sauÐặng chứng thành làm PhậtCõi đó rất thanh tịnhChất lưu ly làm đấtNhiều thứ cây bằng báuThẳng hàng ở bên đườngDây vàng giăng ngăn đườngNgười ngó thấy vui mừngThường thoảng ra hương thơmRải rác thứ hoa đẹpCác món báu kỳ diệuDùng để làm trang nghiêmCõi đó đất bằng thẳngKhông có những gò hầm.Các hàng chúng Bồ TátÐông không thể xưng kểTâm các vị hòa dịuÐến đặng thần thông lớnPhụng trì các kinh điểnÐại thừa của các Phật.Các hàng chúng Thanh VănBực vô lậu thân rốt sauLà con của Pháp VươngCũng chẳng thể kể hếtNhẫn đến dùng thiên nhãnCũng chẳng thể đếm biết.Phật đó sẽ sống lâuTuổi mười hai tiểu kiếpTượng pháp trụ ở đờiCũng hai mươi tiểu kiếpÐức Quang Minh Thế TônViệc của ngài như thế.
3.- Lúc bấy giờ, ngài Ðại Mục Kiền Liên, ngài Tu Bồ Ðề, ngài Ðại Ca Chiên Diên v.v... thảy đều run sợ một lòng chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt không hề tạm rời, liền đồng tiếng nhau nói kệ rằng:
Thế Tôn rất hùng mãnhMà ban giọng tiếng Phật.Nói rõ thâm tâm conÐược Phật thọ ký choNhư dùng cam lộ rướiTừ nóng đặng mát mẻ.Như từ nước đói đếnBỗng gặp cỗ tiệc vuaCòn ôm lòng nghi sợChưa dám tự ăn liềnNếu lại đặng vua bảoVậy sau mới dám ăn,Chúng con cũng như vậyHằng nghĩ lỗi tiểu thừaChẳng biết làm thế nàoÐặng huệ vô thượng Phật,Dầu nghe giọng tiếng PhậtNói chúng con thành PhậtCòn ôm lòng lo sợNhư chưa dám tự ănNếu được Phật thọ kýMới là khoái an vuiThế Tôn rất hùng mãnhThường muốn an thế gianXin thọ ký chúng conNhư đói cần bảo ăn.
4.- Lúc bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của các vị đệ tử lớn bảo các thầy Tỳ Kheo rằng: Ông Tu Bồ Ðề đây đến đời vị lai phụng thờ ba trăm năm muôn ức na do tha (6) đức Phật, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ Tát, ở thân rốt sau đặng thành Phật hiệu: Danh tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh-biến-tri, Minh Hạnh Túc, Thiện-Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế-Tôn.
Kiếp đó tên Hữu Bửu, nước đó tên là Bửu Sanh. Cõi đó bằng thẳng, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, không có những gò, hầm, cát, sỏi., gai chông cùng tiện lợi dơ dáy; hoa báu trải đất khắp nơi sạch sẽ, nhơn dân cõi đó đều ở đài báu và lầu gác quí đẹp. Hàng đệ tử Thanh Văn đông vô lượng vô biên, tính kể cùng thí dụ đều không thể biết. Các chúng Bồ Tát đông vô số nghìn muôn ức na-do-tha.
Ðức Phật thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ đời hai mươi tiểu kiếp, Ðức Phật đó thường ở trên hư không vì chúng tôi nói pháp độ thoát đặng vô lượng Bồ Tát cùng chúng Thanh-Văn.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
5.ớ Các chúng Tỳ Kheo nầy!
Nay ta bảo các ôngÐều nên phải một lòngLóng nghe lời ta nói .Ðệ tử lớn của taLà ông Tu Bồ ÐềRồi sẽ đặng làm PhậtHiệu gọi là Danh TướngSẽ phải cúng vô sốMuôn ức các đức PhậtTheo hạnh của Phật làmLần lần đủ đạo lớn.Thân rốt sau sẽ đặngBa mươi hai tướng tốtXinh lịch đẹp đẽ lắmDường như núi báu lớnTrang-nghiêm sạch thứ nhấtChúng sanh nào được thấyKhông ai chẳng ưa mếnPhật ở trong cõi đóÐộ thoát vô lượng chúng .Trong pháp hội của PhậtCác Bồ Tát đông nhiềuThảy đều bực lợi cănChuyển pháp luân bất thối .Cõi nước đó thường dùngBồ Tát để trang nghiêmCác chúng Thanh Văn lớnChẳng có thể đếm kểÐều đặng ba món minhÐủ sáu thứ thần thôngTrụ tám pháp giải thoátCó oai đức rất lớn .Ðức Phật đó nói phápHiện ra vô lượng mónPháp thần thông biến hóaChẳng thể nghĩ bàn được .Các hàng trời, nhơn dânSố đông như hằng saÐều cùng nhau chắp tayLóng nghe lời Phật dạy .Ðức Phật đó sẽ thọTuổi mười hai tiểu kiếpChánh pháp trụ lại đờiÐủ hai mươi tiểu kiếpTượng pháp trụ ở đờiCũng hai mươi tiểu kiếp .
6.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo các chúng Tỳ Kheo: Ta nay nói với các ông, ông Ðại Ca Chiên Diên này ở đời sẽ tới, dùng các đồ cúng mà cúng dường phụng thờ tám nghìn đức Phật cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp miếu cao một nghìn đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp miếu cao một nghìn do tuần, ngang rộng ngay bằng năm trăm do tuần, tháp miếu đó dùng bảy món báu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chơn châu và mai khôi hiệp lại thành, cúng dường tháp miếu bằng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan....
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trước, cúng dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ Tát sẽ đặng làm Phật hiệu: Diêm Phù Na Ðề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên-Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Cõi đó bằng thẳng, đất bằng pha-lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm bằng dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la . Các trời cùng người rất đông, các chúng Thanh Văn và Bồ Tát vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Ðức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trước, cúng dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ-Tát sẽ đặng làm Phật hiệu: Diêm-Phù Na Ðề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Cõi đó bằng thẳng, đất bằng pha lê cây báu trang nghiêm, vàng ròng là dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la . Các trời cùng người rất đông, các chúng Thanh Văn và Bồ Tát vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Ðức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.
Lúc đó Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
7.- Các chúng Tỳ Kheo nầy!
Ðều nên một lòng nghe
Như lời của ta nóiChơn thiệt không khác lạ.Ông Ca Chiên Diên nàySau sẽ dùng các mónÐồ cúng dường tốt đẹpMà cúng dường các PhậtCác đức Phật diệt rồiDựng tháp bằng bảy báuCũng dùng hoa và hươngÐể cúng dường Xá-lợi .Thân rốt sau của ôngÐặng trí huệ của PhậtThành bực Ðẳng-Chánh-GiácCõi nước rất thanh tịnhÐộ thoát đặng vô lượngMuôn ức hàng chúng sanhÐều được mười phương khácThường đến kính cúng dường,Ánh sáng của Phật đóKhông ai có thể hơnÐức Phật đó hiệu là:Diêm Phù Kim Quang PhậtBồ Tát và Thanh VănDứt tất cả hữu lậuÐông vô lượng vô sốTrang nghiêm cõi nước đó.
8.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo trong đại chúng: "Ta nay nói với các ông, ông Ðại Mục Kiền Liên đây sẽ dùng các món đồ cúng, cúng dường tám nghìn các đức Phật, cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ đều dựng tháp miếu cao, một nghìn do tuần, ngang rộng thẳng bằng năm trăm do tuần, dùng bảy món báu: vàng bạc, mai khôi hiệp lại thành. Ðem các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu và tràng phan để cúng dường tháp.
Sau lúc ấy lại sẽ cúng dường, hai trăm muôn ức các đức Phật cũng như trước, rồi sẽ đặng thành Phật hiệu: Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô-thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Kiếp đó tên là Hỷ Mãn, nước tên là Ý Lạc, cõi đó bằng thẳng, chất pha lê là đất, cây báu trang nghiêm, rải hoa trân châu khắp nơi sạch sẽ, người được thấy đều vui mừng. Các hàng trời người rất đông, Bồ Tát và Thanh Văn số nhiều vô lượng, đức Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ bốn mươi hai tiểu kiếp.
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
9.ớ Ðệ tử của ta đây
Là Ðại Mục Kiền Liên
Bỏ thân người nầy rồiSẽ đặng gặp tám nghìnHai trăm muôn ức vịCác đức Phật Thế TônÔng vì cầu Phật đạoNên cúng dường cung kínhỞ nơi các đức PhậtThường tu trì phạm hạnhỞ trong vô lượng kiếpPhụng trì pháp của Phật.Các đức Phật diệt rồiXây tháp bằng bảy báuTháp vàng rất cao rộngDùng hoa hương kỹ nhạcÐể dùng dâng cúng dườngTháp miếu các đức Phật.Lần lần đặng đầy đủÐạo hạnh Bồ Tát rồiỞ nơi nước Ý LạcMà đặng thành quả PhậtHiệu là Ða Ma LaBạt Chiên Ðàn Hương Phật.Ðức Phật đó thọ mạngHai mươi bốn tiểu kiếpThường vì hàng trời ngườiMà diễn nói đạo PhậtChúng Thanh Văn vô lượngNhư số cát sông HằngÐủ ba minh, sáu thôngÐều có oai đức lớn.Bồ-Tát đông vô sốChí bền lòng tinh tấnỞ nơi trí huệ PhậtÐều không hề thối chuyển.Sau khi Phật diệt độChánh pháp sẽ trụ đờiÐủ bốn mươi tiểu kiếpTượng pháp cũng như thế .
10.ớ Các đệ tử của ta
Bực oai đức đầy đủSố đó năm trăm ngườiTa đều sẽ thọ kýỞ nơi đời vị laiÐều đặng chứng thành PhậtTa cùng với các ôngÐời trước kết nhơn duyênTa nay sẽ thuật nóiCác ông khéo lóng nghe .
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Hóa Thành Dụ' Thứ Bảy
1.ớ Ðức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo: "Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp đã qua, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế-Tôn.
Nước đó tên là Hảo Thành, kiếp tên Ðại tướng. Các Tỳ Kheo! Từ khi đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủng trong cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một nghìn cõi nước ở phương đông bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một nghìn cõi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lầ lựa chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên. Ý các ông nghĩ sao? Các cõi nước đó hoặc thầy toán có thể biết đặng ngằn mé số đó chăng? "
ớ Thưa Thế Tôn! Không thể biết!
ớ Các Tỳ Kheo! Những cõi nước của người đó đi qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức a tăng kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như Lai xem thuở lâu xa đó dường như hiện ngày nay .
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2.ớ Ta nhớ đời quá khứ
Vô lượng vô biên kiếpCó Phật Lưỡng Túc TônHiệu Ðại Thông Trí ThắngNhư người dùng sức màiCõi tam thiên đại thiênHết tất cả địa chủngThảy đều làm thành mựcQuá hơn nghìn cõi nướcBèn chấm mỗi điểm trầnNhư thế lần lựa chấmHết các mực trần nầy .Bao nhiêu cõi nước đóÐiểm cùng chẳng điểm thảyLại đều nghiền làm bụiMột bụi làm một kiếpKiếp số lâu xa kiaLại nhiều hơn số bụiPhật đó diệt đến nayVô lượng kiếp như thếTrí vô ngại của PhậtBiết Phật đó diệt độVà Thanh Văn Bồ TátNhư hiện nay thẩy diệt.Các Tỳ Kheo nên biết.Trí Phật tịnh vi diệuVô lậu và vô ngạiSuốt thấu vô lượng kiếp.
3.ớ Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: "Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na do tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng phá ma rồi, sắp đặng đạo vô thượng chánh đẳng, chánh giác mà Phật pháp chẳng hiện ra trước, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân và tâm đều không động mà các Phật pháp còn chẳng hiện ra trước.
Thuở đó, các vị trời Ðao Lợi ở dưới cội cây Bồ Ðề đã trước vì đức Phật đó mà trải toà Sư tử cao một do tuần (7), Phật ngồi nơi tòa nầy sẽ đặng đạo vô thượng, chánh đẳng, chánh giác. Khi Phật vừa ngồi trên tòa đó các trời Phạm Thiên Vương rưới những hoa trời khắp bốn mươi do tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa héo rồi rưới hoa mới mãi như thế không ngớt mãn mười tiểu kiếp để cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt-độ thường rưới hoa nầy . Các trời Tứ Thiên Vương vì cúng dường Phật nên thường đánh trống trời . Ngoài ra các vị trời khác trỗi kỹ nhạc trời, mãn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng lại như thế.
Các Tỳ Kheo! Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật quá mười tiểu kiếp các Phật pháp hiện ra trước thành đạo Vô Thượng chánh đẳng chánh giác.
Lúc Phật chưa xuất gia có mười sáu người con trai, người con cả tên Trí-Tích. Các người con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe cha chứng đặng quả vô-thượng chánh đẳng chánh giác đều bỏ đồ báu của mình đi đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc theo đưa .
Ông nội là vua Chuyển Luân Thánh Vương, cùng một trăm vị đại thần và trăm nghìn muôn ức nhơn dân khác đều vây quanh nhau đi theo đến đạo tràng, mọi người đều đến gần gũi đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen. Khi đã đến nơi tất cả đem đầu mặt mình lạy chơn Phật, đi vòng quanh đức Phật xong, đều chắp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, rồi nói kệ khen Phật:
4.ớ Thế Tôn oai đức lớn
Vì muốn độ chúng sanhTrong vô lượng ức nămBèn mới đặng thành PhậtCác nguyện đã đầy đủHay thay lành vô thượngThế Tôn rất ít cóMột phen ngồi mười kiếpThân thể và tay chơnYên tịnh không hề độngTâm Phật thường lặngChưa từng có tán loạnTrọn rốt ráo vắng bặtAn trụ pháp vô lậuNgày nay thấy Thế TônAn ổn thành Phật đạoChúng con được lợi lànhMừng rỡ rất vui đẹp.Chúng sanh thường đau khổÐui mù không Ðạo SưChẳng biết đạo dứt khổChẳng biết cầu giải thoátLâu ngày thêm nẻo ácGiảm tổn các chúng trờiTừ tối vào nơi tốiTrọn chẳng nghe danh Phật.Nay Phật đặng vô thượngÐạo an ổn vô lậuChúng ta và trời ngườiVì đặng lợi lớn tộtCho nên đều cúi đầuQuy mạng (8) đấng vô thượng.
5.ớ Bấy giờ mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi liền khuyến thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân, đều thưa rằng: "Ðức Thế Tôn nói pháp được an ổn, thương xót làm lợi ích cho các trời và nhơn dân" . Lại nói kệ rằng:
Ðức Phật không ai bằng
Trăm phước tự trang nghiêmÐặng trí huệ vô thượngNguyện vì đời nói phápÐộ thoát cho chúng conVà các loài chúng sanhXin phân biệt chỉ bàyCho đặng trí huệ PhậtNếu chúng con cũng thành PhậtChúng sanh cũng được thếThế Tôn biết chúng sanhThâm tâm nghĩ tưởng gìCũng biết đạo chúng làmLại biết sức trí huệMuốn ưa và tu phướcNghiệp gây tạo đời trướcThế-Tôn biết cả rồiNên chuyển pháp Vô-thượng.
6.ớ Phật bảo các Tỳ Kheo: Lúc Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật đặng quả Vô Thượng chánh đẳng chánh giác, trong mười phương, mỗi phương đều năm trăm muôn ức các cõi nước Phật sáu điệu vang động. Trong các cõi nước đó chỗ tối tăm ánh sáng của nhựt nguyệt không soi tới đặng mà đều sáng rỡ, trong đó chúng sanh đều đặng thấy nhau, đồng nói rằng: "Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh?".
Lại trong các cõi đó cung điện của chư Thiên cho đến Phạm Cung sáu điệu vang động, hào quang lớn soi cùng khắp đầy cõi nước, sáng hơn ánh sáng của trời .
7.ớ Bấy giờ, phương Ðông, năm trăm muôn ức các cõi nước, cung điện của trời Phạm Thiên (9) ánh sáng soi chói gấp bội hơn ánh sáng thường ngày, các Phạm Thiên Vương đều tự nghĩ rằng: "Hôm nay cung điện sáng suốt từ xưa chưa từng có, vì nhơn duyên gì mà hiện điềm tốt này?" Lúc đó các vị Phạm Thiên Vương liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Trong chúng có một vị Phạm-Thiên-Vương lớn tên Cứu-Nhứt-Thiết vì các Phạm-chúng mà nói kệ rằng:
Các cung điện chúng taSáng suốt xưa chưa cóÐây là nhơn duyên gìPhải nên chung nhau tìmLà trời đại đức sanhHay là Phật ra đờiMà ánh sáng lớn nàyKhắp soi cả mười phương.
Bấy giờ, năm trăm muôn ức cõi nước, các vị Phạm Thiên Vương cùng chung với cung điện (10) mỗi vị đều lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đi đến phương Tây suy tì tướng sáng đó. Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử ở nơi đạo tràng dưới cội Bồ Ðề, hàng chư Thiên, Long Vương, Cà Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhơn và phi nhơn v.v... cung kính vây quanh đức Phật chuyển pháp luân; tức thời các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lạy chơn Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật.
Hoa của mấy ông rải nhóm như núi Diệu-Cao, cùng để cúng-dường cây Bồ-đề của Phật, cây Bồ-đề đó cao mười do-tuần. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đem cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng: " Xin đức Phật đoái thương lợi-ích cho chúng con, cung điện dưng cúng đây xin nhận ở. "
Lúc đó, các vị Phạm-thiên-vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Thế Tôn rất ít cóKhó thể gặp gỡ đặngÐủ vô lượng công đứcHay cứu hộ tất cảThầy lớn của trời ngườiThương xót ở trong đờiMười phương các chúng sanhKhắp đều nhờ lợi ích.Chúng con từng theo đếnNăm trăm muôn ức nướcBỏ vui thiền định sâuVì để cúng dường PhậtChúng con phước đời trướcCung điện rất tốt đẹpNay đem dưng Thế TônCúi xin, thương nạp thọ .
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi thưa rằng: "Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân, độ thoát chúng sanh mở đường Niết-bàn. "
Khi ấy, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ rằng:
Thế Hùng Lưỡng Túc TônCúi xin diễn nói phápDùng sức từ bi lớnÐộ chúng sanh khổ não .
Lúc đó đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai lắng yên nhận lời đó (11)
8.ớ Lại nữa các Tỳ Kheo! Phương đông nam năm trăm muôn ức cõi nước các vị Phạm Thiên Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu, liền cùng đến nhau chung bàn việc đó. Lúc ấy trong chúng đó có một vị Phạm Thiên Vương tên là Ðại Bi, vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Việc đó nhơn duyên gìMà hiện tướng như thế?Các cung điện chúng taSáng suốt xưa chưa từng cóLà trời đại đức sanhHay là Phật ra đời?Chưa từng thấy tướng nầyNên chung một lòng cầuQuá nghìn muôn ức cõiTheo luồng sáng tìm đếnPhần nhiều Phật ra đờiÐộ thoát khổ chúng sanh .
Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng chung với cung điện, lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đến phương Tây Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ Ðề, các hàng chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhơn cùng phi nhơn v.v... cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Khi ấy các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lạy chơn Phật, đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao, cùng để cúng dường cây Bồ Ðề của Phật . Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin Phật thương xót lợi ích cho chúng con, những cung điện dưng đây cúi xin nhận ở ".
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thánh Chúa vua trong trờiTiếng Ca Lăng Tần GiàThương xót hàng chúng sanhChúng con nay kính lễ .Thế Tôn rất ít cóLâu xa một lần hiệnMột trăm tám mươi kiếpLuống qua không có PhậtBa đường dữ dẫy đầyCác chúng trời giảm ít.Nay Phật hiện ra đờiLàm mắt cho chúng sanhChỗ quy thú của đờiCứu hộ cho tất cảLà cha của chúng sanhThương xót làm lợi íchNhờ phước lành đời trướcNay đặng gặp Thế Tôn.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Phật xong đều thưa rằng: "Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả chuyển pháp luân cho, để độ thoát chúng sanh".
Lúc ấy, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ khen rằng:
Ðại thánh chuyển pháp luânChỉ bày các pháp tướngÐộ chúng sanh đau khổKhiến đặng rất vui mừngChúng sanh nghe pháp nàyÐặng đạo hoặc sanh thiênCác đường dữ giảm ítBực nhẫn thiện thêm nhiều .
Khi đó, đức Ðại Thông Trí Thắng Phật lặng yên nhận lời .
9.ớ Lại nữa các Tỳ Kheo! năm trăm muôn ức cõi nước ở phương Nam các vị Ðại Phạm Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu liền đến cùng nhau chung bàn việc đó. Vì nhơn duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng chói này?
Trong chúng đó có một vị Phạm Thiên Vương lớn tên là Diệu-pháp, vì hàng Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Các cung điện chúng taQuang minh rất oai diệuÐây không phải không nhơnTướng nầy phải tìm đóQuá hơn trăm nghìn kiếpChưa từng thấy tướng nầyLà trời đại đức sanhHay đức Phật ra đời?
Bấy giờ, năm trăm muôn ức Phạm Thiên Vương cùng cung điện chung, mỗi vị dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội cây Bồ Ðề, hàng chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, Khẩn-na La, Ma Hầu La Già, nhơn và phi nhơn v.v..., cung kính vây quanh, cùng thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lễ Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao và để cúng dường cây Bồ Ðề của Phật. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đều đem cung điện dâng lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin đức Phật đoái thương lợi ích chúng con, cung điện của chúng con dưng đây cúi xin nạp xử". Bấy giờ, các vị Ðại Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thế Tôn rất khó thấyBực phá các phiền nãoHơn trăm ba mươi kiếpNay mới thấy một lầnHàng chúng sanh đói khátNhờ mưa pháp đầy đủXưa chỗ chưa từng thấyÐấng vô lượng trí huệNhư hoa Ưu Ðàm BátNgày nay mới gặp gỡCung điện của chúng conNhờ hào quang được đẹpThế Tôn đại từ mẫnCúi xin thương nhận ở .
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi đều bạch rằng: "cúi mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân làm cho tất cả thế gian các hàng trời, ma, phạm, sa môn, bà la môn đều được an ổn mà được độ thoát ". Lúc ấy các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng nói kệ rằng:
Cúi mong Thiên Nhơn TônChuyển pháp luân vô thượngÐánh vang pháp cổ lớnKhắp rưới pháp vũ lớnÐộ vô lượng chúng sanhChúng con đều qui thỉnhNên nói tiếng sâu xa .
Khi đó, đức Ðại Thông Trí Thắng lặng yên nhận lời đó .
10.ớ Phương Tây Nam nhẫn đến nước ở thượng phương, các vị Ðại Phạm Thiên Vương thảy đều tự thấy cung điện của mình ở ánh sáng chói rực từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu, liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Vì nhơn duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy? Lúc đó trong chúng có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí vì hàng Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Nay vì nhân duyên gì?Cung điện của chúng taÁnh sáng oai đức từng có?Tướng tốt như thế đóXưa chưa từng nghe thấyLà trời đại đức sanhHay là Phật ra đời?
Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng cung điện chung, mỗi vị đều dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương dưới suy tìm tướng sáng đó . Thấy đức Ðại-Thông-Trí Như- Lai ngồi tòa sư-tử nơi đạo tràng dưới cội bồ-đề, hàng chư Thiên, Long-vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn và phi-nhơn v.v... cung kính vây quanh và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh đức Phật chuyển pháp luân .
Lúc đó, các vị Phạm-thiên-vương đầu mặt lạy Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật . Hoa rải nhóm như núi Diệu Cao và để cúng dường cây bồ đề của Phật . Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà bạch rằng: "Xin đoái thương lợi ích chúng con. Cung điện dưng đây cúi mong Phật nạp ở ".
Lúc đó, các vị Phạm-thiên-vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Hay thay! thấy các PhậtÐấng Thánh-Tôn cứu ThếHay ở ngục tam giớiCứu khổ các chúng sanhThiên Nhơn Tôn trí khắpThương xót loài quần manhHay khai môn cam lộRộng độ cho tất cả .Lúc xưa vô lượng kiếpLuống qua không có PhậtKhi Phật chưa ra đờiMười phương thường mờ tốiBa đường dữ thêm đôngA-tu-la cũng thạnhCác chúng trời càng bớtChết nhiều đọa ác đạoChẳng theo Phật nghe phápThường làm việc chẳng lànhSắc, lực, cùng trí huệCác việc đều giảm ítVì tội nghiệp nhơn duyênMất vui cùng tưởng vuiTrụ trong pháp tà kiếnChẳng biết nghi tắc lànhChẳng nhờ Phật hóa độThường đọa trong ác đạo .Phật là mắt của đờiLâu xa mới hiện raVì thương các chúng sanhNên hiện ở trong đờiSiêu việt thành chánh giácChúng con rất mừng vuiVà tất cả chúng khácMừng khen chưa từng cóCung điện của chúng conNhờ hào quang nên đẹpNay đem dưng Thế-TônCúi mong thương nhận ởNguyện đem công đức nàyKhắp đến cho tất cảChúng con cùng chúng sanhÐều đồng thành Phật đạo .
Khi đó, năm trăm muôn ức các vị Phạm-thiên-vương nói kệ khen đức Phật rồi, đều bạch Phật rằng: "Cúi mong đức Thế-Tôn chuyển pháp luân, nhiều chỗ an ổn, nhiều chỗ độ thoát". Lúc ấy các vị Phạm-thiên-vương đồng nói kệ rằng:
Thế Tôn chuyển pháp luânÐánh trống pháp cam lộÐộ chúng sanh khổ nãoMở bày đường Niết BànCúi mong nhận lời conDùng tiếng vi diệu lớnThương xót mà nói bàyPháp tu vô lượng kiếp .
11.ớ Lúc bấy giờ, Ðại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh của các Phạm-thiên-vương và mười sáu vị vương tử tức thời ba phen chuyển pháp luân mười hai hành (12) hoặc là sa môn, bà la môn, hoặc là trời, ma, phạm và các thế gian khác đều không thể chuyển được, nói: đây là khổ,
đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ .
Và rộng nói pháp mười hai nhơn duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não .
Vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệt thời lão, tử, ưu bi, khổ não diệt.
Ðức Phật ở trong đại chúng trời, người khi nói pháp đó có sáu trăm muôn ức na do tha người do vì không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát, đều đặng thiền định sâu mầu, ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát.
Lúc nói pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có nghìn muôn ức hằng hà sa na do tha chúng sanh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà nơi các lậu tâm được giải thoát. Từ đây nhẫn sau các chúng Thanh Văn nhiều vô lượng vô biên, không thể tính kể được.
12.ớ Bấy giờ mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm Sa Di, các căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bạch cùng Phật rằng: "Thưa Thế Tôn! Các vị đại đức Thanh Văn vô lượng nghìn muôn ức đây đã thành tựu xong, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học Thế Tôn! Chúng con có chí mong được tri kiến của Như Lai chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm, đức Phật tự chứng biết cho .
Lúc đó, tám muôn ức người trong chúng của Chuyển Luân Thánh Vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận cho .
Bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh của Sa Di, qua hai muôn kiếp sau mới ở trong hàng bổn chúng nói kinh đại thừa tên là: "Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm". Ðức Phật nói kinh đó xong, mười sáu vị Sa Di vì đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đồng thọ thì đọc tụng thông thuộc. Lúc nói kinh đó, mười sáu vị Sa Di Bồ Tát thảy đều tin thọ trong chúng Thanh Văn cũng có người tin hiểu . Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sanh đều sanh lòng nghi lầm. Phật nói kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong thiền định tám muôn bốn nghìn kiếp.
13.ớ Bấy giờ, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di biết Phật nhập thất trụ trong thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên Pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn kiếp vì bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa .
Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi mừng, khiến phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
14.ớ Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật qua tám muôn bốn nghìn kiếp sau từ tam muội dậy, qua đến pháp tòa mà ngồi an lành, khắp bảo trong hàng đại chúng: "Mười sáu vị Bồ Tát Sa Di này rất là ít có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường vô lượng nghìn muôn ức số đức Phật, ở chỗ các đức Phật thường tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó. Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy .
Vì sao? Nếu hàng Thanh Văn, Duyên Giác cùng các Bồ Tát có thể tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ Tát Sa Di đó nói mà thọ trì không mất, thời người đó sẽ đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác trí huệ của Như Lai".
15.ớ Phật bảo các Tỳ Kheo: "Mười sáu vị Bồ Tát đó thường ưa nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy . Sáu trăm muôn ức na tho hằng hà sa chúng sanh của mỗi vị Bồ Tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ Tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ Tát thảy đều tin hiểu . Nhờ nhơn duyên đó mà đặng gặp bốn muôn ức các đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt.
Các Tỳ Kheo! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa Di đệ tử của đức Phật kia nay đều chứng đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện đương pháp trong cõi nước ở mười phương có vô lượng trăm nghìn muôn ức Bồ Tát Thanh Văn để làm quyến thuộc.
Hai vị Sa Di làm Phật ở phương Ðông: Vị thứ nhất tên là A Súc ở nước Hoa Hỷ, vị thứ hai tên là Tu Di Ðảnh. Hai vị làm Phật ở phương Ðông Nam: Vị thứ nhứt tên là Sư Tử Âm, vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng . Hai vị làm Phật ở phương Nam: Vị thứ nhứt tên là Thường Diệt. Hai vị làm Phật ở phương Tây Nam: Vị thứ nhứt tên là Ðế Tướng, vị thứ hai tên là Phạm Tướng . Hai vị làm Phật ở phương Tây: Vị thứ nhứt tên là A Di Ðà, vị thứ hai tên là Ðộ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não . Hai vị làm Phật ở phương Tây Bắc: Vị thứ nhứt tên là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tu Di Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhứt tên là Vân Tự Tại, vị thứ hai tên là Vân Tự Tại Vương. Một vị làm Phật ở phương Ðông Bắc hiệu Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy . Vị thứ mười sáu, chính ta là Thích Ca Mâu Ni Phật ở cõi nước Ta Bà thành vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Các Tỳ Kheo! Lúc chúng ta làm Sa Di mỗi người giáo hóa vô lượng trăm nghìn muôn ức hằng hà sa chúng sanh vì đạo vô thượng chánh đẳng, chánh giác theo ta nghe pháp . Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bực Thanh Văn, ta thường giáo hóa pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác. Những bọn người này đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo .
Vì sao? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng hà sa chúng sanh bị hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các Tỳ Kheo, và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thinh Văn trong đời vị lai . Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hay hạnh của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết Bàn.
Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh lòng tưởng là diệt độ nhập Niết Bàn, nhưng ở nơi cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức Như Lai phương tiện nói pháp.
Các Tỳ Kheo! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, sâu vào thiền định, bèn nhóm các Bồ Tát và chúng Thanh Văn mà vì nói kinh nầy . Trong đời không có hai thừa mà đặng diệt độ, chỉ có một Phật Thừa đặng diệt độ thôi .
Các Tỳ Kheo nên rõ! Ðức Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham nơi năm món dục vì hạng người này mà nói Niết Bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận.
16.ớ Thí dụ đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do tuần. Chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường nầy đến chỗ trân bửu, có một vị đạo sư thông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhơn muốn vượt qua nạn đó . Chúng nhơn được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch đạo sư rằng: "Chúng con mệt nhọc lại thêm sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về ".
Vị đạo sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: Bọn này đáng thương, làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về. Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhơn rằng: " Các người chớ sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể dừng ở trong đó tùy ý muốn làm gì thì làm, nếu vào thành nầy sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳng đến chỗ châu báu đi cũng đặng ".
Bấy giờ, chúng mỏi mệt rất vui mừng khen chưa từng có, chúng ta hôm nay khỏi được đường dữ rất được an ổn. Ðó rồi chúng nhơn thẳng vào hóa thành sanh lòng tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn .
Lúc ấy đạo sư biết chúng nhơn đó đã được nghỉ ngơi không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành bảo chúng nhơn rằng: "Các người nên đi tới, chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi".
Các Tỳ Kheo! Ðức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Ðại Ðạo Sư, biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên vượt qua . Nếu như chúng sanh chỉ nghe một Phật Thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gủi, mà nghĩ thế nầy: "Ðạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể đặng thành". Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương tiện mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết Bàn. (13)
Nếu chúng sanh trụ nơi hai bực, đức Như Lai bấy giờ liền bèn vì nói:
" Chỗ tu của các ông chưa xong bực của các ông ở gần với huệ của Phật . Phải quan sát suy lường Niết Bàn đã đặng đó chẳng phải chơn thật vậy . Chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật Thừa phân biệt nói thành ba . Như hai vị đạo sư kia vì cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa thành lớn, đã biết nghỉ xong mà bảo rằng: " Chỗ châu báu ở gần, thành nầy không phải thiệt, của ta biến hóa làm ra đó thôi".
Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
17.ớ Ðại Thông Trí Thắng Phật
Mười kiếp ngồi đạo tràngPhật pháp chẳng hiện tiềnChẳng đặng thành Phật đạoCác trời, thần, Long VươngChúng A Tu La thảyThường rưới các hoa trờiÐể cúng dường Phật đóChư thiên đánh trống trờiVà trổi các kỹ nhạcGió mưa thổi hoa héoLại mưa bông tốt mớiQuá đặng thành Phật đạoCác trời cùng người đờiLòng đều sanh hớn hở .Mười sáu người con PhậtÐều cùng quyến thuộc mìnhNghìn muôn ức vây quanhChung đi đến chỗ PhậtÐầu mặt lạy chơn PhậtThỉnh Phật chuyển Pháp Luân"Ðấng Thánh Sư mưa phápLợi con và tất cảThế Tôn rất khó gặpLâu xa một lần hiệnVì giác ngộ quần sanhMà chấn động tất cả".Các thế giới phương đôngNăm trăm muôn ức cõiPhạm cung điện sáng chóiTừ xưa chưa từng cóPhạm Vương thấy tướng nàyLiền đến chỗ Phật ởRải hoa để cúng dườngVà dưng cung điện lênThỉnh Phật chuyển pháp luânNói kệ ngợi khen PhậtPhật biết chưa đến giờNhận thỉnh yên lặng ngồiBa phương cùng bốn phíaTrên, dưới cũng như thếRưới hoa dưng cung điệnThỉnh Phật chuyển Pháp Luân:"Thế Tôn rất khó gặpNguyện vì bổn từ biRộng mở cửa cam lộChuyển pháp luân vô thượng. "
18.ớ Thế Tôn huệ vô thượng
Nhân chúng nhơn kia thỉnhVì nói các món phápBốn đế, mười hai duyênVô minh đến lão tửÐều từ sanh duyên hữuNhững quá hoạn như thếCác ông phải nên biết.Tuyên nói pháp đó rồiSáu trăm muôn ức cai (14)Ðặng hết các ngằn khổÐều thành A La Hán.Thời nói pháp thứ haiNghìn muôn hằng sa chúngỞ các pháp chẳng thọCũng đặng A La Hán,Từ sau đây đặng đạoSố đông đến vô lượngMuôn ức kiếp tính kểKhông thể đặng ngằn mé
19.ớ Bấy giờ mười sáu vị
Xuất gia làm Sa-diÐều đồng thỉnh Phật kiaDiễn nói pháp đại thừa:" Chúng con cùng quyến thuộcÐều sẽ thành Phật đạoNguyện đặng như Thế TônHuệ nhãn sạch thứ nhứt ."Phật biết lòng đồng tửChỗ làm của đời trướcDùng vô lượng nhơn duyênCùng các món thí dụNói sáu ba la mậtVà các việc thần thông,Phân biệt pháp chơn thiệtÐạo của Bồ Tát làmNói kinh Pháp Hoa nầyKệ nhiều như hằng sa .Phật kia nói kinh rồiVào tịnh thất nhập địnhTám muôn bốn nghìn kiếpMột lòng ngồi một chỗ.Các vị Sa Di đóBiết Phật chưa xuất thiềnVì vô lượng chúng nóiHuệ vô thượng của PhậtMỗi vị ngồi pháp tòaNói kinh đại thừa nầySau khi Phật yên lặngTuyên bày giúp giáo hóa .Mỗi vị Sa Di thảySố chúng sanh mình độCó sáu trăm muôn ứcHằng hà sa các chúng.Sau khi Phật diệt độCác người nghe pháp đóỞ các nơi cõi PhậtThường cùng thầy sanh chung.Mười sáu Sa Di đóÐầy đủ tu Phật đạoNay hiện ở mười phươngÐều đặng thành chánh giácNgười nghe pháp thuở đóÐều ở chỗ các PhậtCó người trụ Thanh VănLần dạy cho Phật đạo .Ta ở số mười sáuTừng vì các ngươi nóiCho nên dùng phương tiệnDẫn dắt đến huệ PhậtDo bổn nhơn duyên đóNay nói kinh Pháp HoaKhiến ngươi vào Phật ÐạoDè dặt chớ kinh sợ .
20.ớ Thí như đường hiểm dữ
Xa vắng nhiều thú độcVà lại không cỏ nướcChốn mọi người ghê sợVô số nghìn muôn chúngMuốn qua đường hiểm nầyÐường đó rất xa vờiTrải năm trăm do tuần.Bấy giờ một đạo sưNhớ dai có trí tuệSáng suốt lòng quyết địnhÐường hiểm cứu các nạnMọi người đều mệt mỏiMà bạch đạo sư rằng:"Các ngươi nên đi nữaÐây là hóa thành thôiThấy các ngươi mỏi mệtGiữa đường muốn lui vềNên dùng sức phương tiệnTa hóa làm thành nàyCác ngươi gắng tinh tấnNên đồng đến chỗ báu
21.ớ Ta cũng lại như vậy
Ðạo sư của tất cảThấy những người cầu đạoGiữa đường mà lười bỏKhông thể vượt đường dữSanh tử đầy phiền nãoNên dùng sức phương tiệnVì nghỉ nói Niết Bàn.Rằng các ngươi khổ diệtChỗ làm đều đã xongÐã biết đến Niết BànÐều chứng A La HánGiờ mới nhóm đại chúngVì nói pháp chơn thậtSức phương tiện các PhậtPhân biệt nói ba thừaChỉ có một Phật ThừaVì nghỉ nên nói hai (15)Vì các ngươi chưa phải diệt,Vì nhứt thiết trí PhậtNên phát tinh tấn mạnhNgươi chứng nhứt thiết tríMười lực các Phật PhápÐủ băm hai tướng tốtMới là chơn thiệt diệt,Các Phật là đạo sưVì nghỉ nói Niết BànÐã biết ngơi nghỉ rồiDẫn vào nơi huệ Phật.
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
KINH
Diệu Pháp Liên Hoa
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dịch từ Hoa văn sang tiếng Việt
8. Ngũ bá đệ tử thọ ký phẩm |
9. Thọ-học vô-học nhơn-ký phẩm |
10. Pháp sư phẩm |
11. Hiện Bửu tháp phẩm |
12. Ðề-Bà-Ðạt-Ða phẩm |
13. Trì phẩm |
Quyển Thứ Tư
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Ngũ Bá Ðệ Tử Thọ Ký' Thứ Tám
1.- Lúc bấy giờ, ngài Mãn-Từ-Tử từ nơi đức Phật nghe trí-tuệ phương-tiện tùy cơ nghi nói pháp như thế, lại nghe thụ-ký cho các đệ-tử lớn sẽ thành Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác, lại nghe việc nhân duyên đời trước, lại nghe các đức Phật có sức tự-tại thần-thông lớn, được điều chưa từng có, lòng thanh-tịnh hớn-hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng qua một bên chiêm-ngưỡng dung-nhan của Phật mắt không tạm rời, mà nghĩ thế này :
'Thế-Tôn rất riêng lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủng tính ở trong đời, dùng sức phương-tiện tri kiến mà vì đó nói pháp, vớt chúng-sinh ra khỏi chỗ tham trước, chúng con ở nơi công-đức của Phật không thể dùng lời nói mà tuyên bày được, chỉ có đức Phật Thế-Tôn hay biết bản-nguyện trong thâm-tâm của chúng con'.
2.- Bấy giờ Phật bảo các Tỷ-khiêu : 'Các ông thấy Mãn-Từ-Tử đây chăng ? Ta thường khen ông là bậc nhất trong hàng người nói pháp, cũng thường khen các món công-đức của ông, ròng-rặc siêng-năng hộ-trì giúp tuyên bày pháp của ta, có thể chỉ dạy lời mừng cho hàng bốn chúng (1) giải thích trọn vẹn chính-pháp của Phật, mà làm nhiều lợi ích cho những người cùng đồng hạnh thanh-tịnh. Ngoài đức Như-Lai, không ai có thể cùng tận chỗ biện-bác ngôn-luận của ông. Các ông chớ tưởng Mãn-Từ-Tử chỉ hay hộ-trì trợ tuyên pháp của ta thôi, ông cũng đã ở nơi chín mươi ức đức Phật thuở quá-khứ mà hộ-trì trợ tuyên chính-pháp của Phật, ở trong nhóm người nói pháp thuở đó cũng là bậc nhất.
Ông lại ở pháp-không của chư Phật nói, thông-suốt rành-rẽ, được bốn món trí vô-ngại, thường hay suy gẫm chắc-chắn nói pháp thanh-tịnh không có nghi lầm đầy đủ sức thần-thông của Bồ Tát tùy số thọ-mệnh mà thường tu hạnh thanh-tịnh.
Người đời thuở đức Phật kia đều gọi ông thực là Thinh-văn. Nhưng ông Mãn-Từ-Tử dùng phương-tiện đó làm lợi-ích cho vô-lượng trăm nghìn chúng-sinh, lại giáo hóa vô-lượng vô-số người khiến đứng nơi vô-thượng chính-đẳng, chính-giác. Ông vì muốn tịnh cõi Phật mà thường làm Phật-sự giáo-hóa chúng-sinh.
Các Tỷ-khiêu ! Ông Mãn-Từ-Tử cũng được bậc nhất ở trong hàng người nói pháp thuở bảy đức Phật, nay ở chỗ ta trong hàng người nói pháp cũng là bậc nhất.
Trong hàng người nói Pháp thuở các đức Phật trong Hiền-kiếp về đương-lai cũng lại là bậc nhất, mà đều hộ-trì giúp tuyên bày pháp của Phật. Ông cũng sẽ ở trong đời vị-lai hộ-trì trợ tuyên chính-pháp của vô-lượng vô-biên các đức Phật, giáo hóa làm lợi-ích cho vô-lượng chúng-sinh khiến an-lập nơi đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác, vì tịnh cõi Phật mà thường siêng-năng tinh-tấn giáo-hóa chúng-sinh, lần lần đầy đủ đạo Bồ Tát.
Qua vô-lượng vô-số kiếp sau, ông sẽ ở nơi cõi này thành Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác , hiệu là :
Pháp-Minh Như-Lai, Ứng-cúng Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật-Thế-Tôn.
Ðức Phật đó lấy số thế-giới tam-thiên đại-thiên nhiều như số cát sông Hằng mà làm thành một cõi Phật. Ðất bằng bảy thứ báu, thẳng bằng như bàn tay không có núi gò, khe suối, rạch ngòi. Nhà, đài bằng bảy thứ báu đầy-dẫy trong đó, cung-điện của các trời ở gần trên hư-không, người cùng trời giao tiếp nhau, hai bên đều thấy được nhau, không có đường dữ cũng không có người nữ.
Tất cả chúng-sinh đều do biến-hóa sinh, không có dâm-dục, được pháp thần-thông lớn, thân chói ánh sáng, bay đi tự-tại, chí niệm bền chắc có đức tinh-tấn trí-tuệ, tất cả đều thân sắc vàng đủ ba mươi hai tướng tốt để tự trang-nghiêm.
Nhân-dân nước đó thường dùng hai thức ăn : một là Pháp-hỷ thực, hai là Thuyền-duyệt thực (2). Có vô-lượng vô-số nghìn muôn ức na-do-tha các chúng Bồ Tát được sức thần-thông lớn, bốn trí vô-ngại (3), khéo hay giáo-hóa loài chúng-sinh. Chúng Thanh-văn trong nước đó tính kể số đếm đều không thể biết được, đều được đầy đủ ba món Minh, sáu pháp thần-thông và tám món giải-thoát. (4)
Cõi nước của đức Phật đó có vô-lượng công-đức trang-nghiêm thành-tựu như thế, kiếp tên Bửu-Minh, nước tên Thiện-Tịnh. Phật đó sống lâu vô-lượng vô-số kiếp, pháp trụ đời rất lâu. Sau khi Phật diệt-độ, dựng tháp bằng bảy thứ báu khắp cả nước đó.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng :
3.- Các Tỷ-khiêu lóng nghe
Ðạo của Phật-tử làm
Vì khéo học phương-tiện
Chẳng thể nghĩ bàn được
Biết chúng ưa pháp nhỏ
Mà sợ nơi trí lớn
Cho nên các Bồ Tát
Làm Thanh-văn Duyên-giác
Dùng vô-số phương-tiện
Ðộ các loài chúng-sinh,
Tự nói là Thanh-văn
Cách Phật-đạo rất xa
Ðộ thoát vô-lượng chúng
Thảy đều được thành tựu
Dầu ưa nhỏ, biếng-lười
Sẽ khiến lần thành Phật.
Trong ẩn hạnh Bồ Tát
Ngoài hiện là Thanh-văn
Ít muốn, nhàm sinh tử
Thực tự tịnh cõi Phật
Bày ba độc cho người (5)
Lại hiện tướng tà-kiến,
Ðệ-tử ta như vậy
Phương-tiện độ chúng-sinh
Nếu ta nói đủ cả
Các món việc hiện hóa
Chúng-sinh nghe đó rồi
Thời lòng sinh nghi lầm
4.- Nay Phú-Lâu-Na đây
Ở xưa nghìn đức Phật
Siêng tu đạo mình làm
Tuyên hộ các Phật-pháp
Vì cầu tuệ vô-thượng
Mà ở chỗ chư Phật
Hiện ở trên đệ-tử
Học rộng có trí-tuệ
Nói pháp không sợ-sệt
Hay khiến chúng vui mừng
Chưa từng có mỏi mệt
Ðể giúp nên việc Phật.
Ðã được thần thông lớn
Ðủ bốn trí vô-ngại
Biết các căn lợi độn
Thường nói pháp thanh-tịnh
Diễn xướng nghĩa như thế
Ðể dạy nghìn ức chúng
Khiến trụ pháp đại-thừa
Mà tự tịnh cõi Phật.
Ðời sau cũng cúng-dàng
Vô-lượng vô-số Phật
Hộ-trợ tuyên chính-pháp
Cũng tự tịnh cõi Phật
Thường dùng các phương tiện
Nói pháp không e sợ
Ðộ chúng không kể được
Ðều thành nhất-thiết-trí
Cúng-dàng các Như-Lai
Hộ-trì tạng pháp-bảo,
Sau đó được thành Phật
Hiệu gọi là Pháp-Minh
Nước đó tên Thiện-Tịnh
Bảy thứ báu hợp thành
Kiếp tên là Bửu-Minh
Chúng Bồ Tát rất đông
Số nhiều vô-lượng ức
Ðều được thần-thông lớn
Sức uy-đức đầy-đủ
Khắp đầy cả nước đó,
Thanh-văn cũng vô-số
Ba minh tám giải-thoát
Ðược bốn trí vô-ngại
Dùng hạng này làm Tăng.
Chúng-sinh trong cõi đó
Dâm-dục đều đã dứt
Thuần một biến-hóa sinh
Thân trang-nghiêm đủ tướng
Pháp-hỷ, thuyền-duyệt thực
Không tưởng món ăn khác,
Không có hàng nữ-nhân
Cũng không các đường dữ.
Phú-Lâu-Na Tỷ-khiêu
Khi công-đức trọn đầy
Sẽ được tịnh-độ này
Chúng hiền thánh rất đông
Vô-lượng việc như thế
Nay ta chỉ nói lược.
5.- Bấy giờ, một nghìn hai trăm vị A-La-Hán, bậc tâm tự-tại, nghĩ như vầy : 'Chúng ta vui mừng được điều chưa từng có, nếu đức Thế-Tôn đều thụ-ký cho như các đệ-tử lớn khác thời sung sướng lắm'.
Ðức Phật biết tâm niệm của các vị đó nên nói với ngài Ðại-Ca-Diếp : 'Một nghìn hai trăm vị A-La-Hán đó, nay ta sẽ hiện-tiền thứ-tự mà thụ-ký đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác.
Trong chúng đó, đệ-tử lớn của ta là Kiều-Trần-Như Tỷ-Khiêu, sẽ cúng-dàng sáu muôn hai nghìn ức đức Phật, vậy sau được thành Phật hiệu là Phổ-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự-trượng-phu, Thiên-nhân-sư Phật Thế-Tôn.
Năm trăm vị A-La-Hán : Ông Ưu-Lâu-Tần-Loa-Ca-Diếp, ông Dà-Gia-Ca-Diếp, ông Na-đề Ca-Diếp, ông Ca-Lưu-Ðà-Di, ông Ưu-Ðà-Di, ông A-Nâu-Lâu-Ðà, ông Ly-bà-Ða, ông Kiếp-tân-Na, ông Bạc-câu-La, ông Chu-Ðà, ông Sa-Dà-Ðà, v.v... đều sẽ được đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác, đều đồng một hiệu là Phổ-Minh.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng :
6.- Kiều-trần-Như Tỷ-khiêu
Sẽ gặp vô-lượng Phật
Mới được thành chính-giác
Thường phóng quang-minh lớn
Ðầy đủ các thần-thông
Danh đồn khắp mười phương
Tất cả đều tôn-kính
Thường nói pháp vô-thượng
Nên hiệu là Phổ-Minh
Cõi nước đó thanh-tịnh
Bồ Tát đều dũng-mãnh
Ðều lên lầu gác đẹp
Dạo các nước mười phương
Ðem đồ cúng vô-thượng
Hiến dâng các đức Phật
Làm việc cúng đó xong
Sinh lòng rất vui mừng
Giây lát về bản-quốc
Có sức thần như thế.
Phật thọ sáu muôn kiếp
Chính-pháp trụ bội thọ
Tượng-pháp lại hơn chính
Pháp diệt trời người lo
7.- Năm trăm Tỷ-khiêu kia
Thứ tự sẽ làm Phật
Ðồng hiệu là Phổ-Minh
Theo thứ thụ-ký nhau :
Sau khi ta diệt-độ
Ông đó sẽ làm Phật
Thế-gian của ông độ
Cũng như ta ngày nay
Cõi nước đó nghiêm sạch
Và các sức thần-thông
Chúng Thanh-văn Bồ Tát
Chính-pháp cùng tượng-pháp
Thọ mệnh kiếp nhiều ít
Ðều như trên đã nói
Ca-Diếp ! Ông đã biết
Năm trăm vị tự-tại
Các chúng Thanh-văn khác
Cũng sẽ làm như thế
Vị nào vắng mặt đây
Ông nên vì tuyên nói.
8.- Bấy giờ, năm trăm vị A-La-Hán ở trước Phật được thụ-ký xong, vui mừng hớn-hở liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lậy chân Phật ăn-năn lỗi của mình mà tự trách : Thế-Tôn, chúng con thường nghĩ như vầy, tự cho mình đã được rốt-ráo diệt-độ, nay mới biết đó là như người vô-trí. Vì sao ? Chúng con đáng được trí-tuệ của Như-Lai mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.
Thế-Tôn ! Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi, lấy châu báu vô-giá cột trong áo của gã say, cho nó rồi đi. Gã đó say nằm đều không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ.
Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng : 'Lạ thay ! Anh này sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an-vui tha hồ thụ năm món dục, ở ngày tháng năm dó, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh nay vẫn còn đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sống thực là khờ lắm; nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng thời thường được vừa ý không chỗ thiếu thốn.
Ðức Phật cũng lại như vậy, lúc làm Bồ Tát giáo-hóa chúng con, khiến phát lòng cầu nhất-thiết-trí, mà chúng con liền bỏ quên không hay không biết. Ðã được đạo A-La-Hán tự nói là diệt-độ, khổ nhọc nuôi sống được chút ít cho là đủ, tất cả trí nguyện vẫn còn chẳng mất. Ngày nay đức Thế-Tôn giác-ngộ chúng con mà nói rằng : 'Các Tỷ-khiêu ! Ðạo của các ông không phải rốt-ráo diệt. Ta từ lâu đã khiến các ông gieo căn lành của Phật, dùng sức phương-tiện chỉ tướng Niết-bàn mà các ông cho là thực diệt-độ'.
Thế-Tôn ! Chúng con nay mới biết mình thực là Bồ Tát được thụ-ký sẽ thành đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác. Vì nhân-duyên đó lòng rất vui mừng được điều chưa từng có.
Bấy giờ, ông A-Nhã Kiều-Trần-Như muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng :
9.- Chúng con nghe vô-thượng
Tiếng thụ-ký an-ổn
Vui mừng chưa từng có
Lậy Phật trí vô-lượng.
Nay ở trước Thế-Tôn
Tự hối các lỗi quấy
Trong Phật báu vô-lượng
Ðược chút phần Niết-Bàn
Bèn tự cho là đủ.
Như người ngu vô-trí
Thí như người nghèo cùng
Qua đến nhà thân-hữu
Nhà đó rất giầu lớn
Bày đủ các tiệc ngon
Ðem châu báu vô-giá
Cột dính trong vạt áo
Thầm cho rồi bỏ đi
Gã say nằm không hay
Sau khi gã đã dậy
Dạo đi đến nước khác
Cầu ăn mặc tự sống
Nuôi sống rất khốn khổ
Ðược ít cho là đủ
Chẳng lại muốn đồ tốt
Chẳng biết trong vạt áo
Có châu báu vô-giá
Người thân-hữu cho châu
Sau gặp gã nghèo này
Khổ thiết trách gã rồi
Chỉ cho châu trong áo.
Gã nghèo thấy châu đó
Lòng gã rất vui mừng
Giầu có các của cải
Tha hồ hưởng ngũ-dục.
Chúng con cũng như vậy
Thế-Tôn từ lâu xưa
Thường thường giáo-hóa cho
Khiến gieo nguyện vô-thượng
Chúng con vì vô-trí
Chẳng hay cũng chẳng biết
Ðược chút phần Niết-bàn
Cho đủ chẳng cầu nữa.
Nay Phật giác-ngộ con
Nói chẳng phải thực diệt.
Ðược Phật tuệ vô-thượng
Ðó mới là thực diệt
Con nay từ Phật nghe
Thụ-ký việc trang-nghiêm
Cùng tuần tự thụ-ký
Thân-tâm khắp mừng vui.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Thụ Học Vô Học Nhân Ký' Thứ Chín
1. Bấy giờ, ngài A-Nan và ngài La-Hầu-La nghĩ như vầy: " Chúng ta tự suy nghĩ, nếu được thụ-ký thời sung-sướng lắm". Liền từ nơi chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lậy chân Phật đồng bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Chúng con trong đây cũng đáng có phần, chỉ có đức Như-Lai, là chỗ về nương của chúng con. Lại chúng con là người quen biết của tất cả trời người A-tu-La trong đời. A-Nan thường làm vị thị-giả hộ trì tạng-pháp, La-Hầu-La là con của Phật, nếu Phật thụ-ký đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác cho, thời lòng nguyện cầu của con đã mãn, mà lòng trông của chúng cũng được đủ".
Lúc đó, hàng đệ-tử Thanh-văn, bậc học cùng vô-học, hai nghìn người đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trệch vai áo bên hữu đến trước Phật chắp tay một lòng chiêm-ngưỡng dung-nhan của Thế-Tôn như chỗ nguyện-cầu của A-Nan và La-Hầu-La rồi đứng qua một phía.
2. Bấy giờ, đức Phật bảo A-Nan: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu là Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thông-Vương-Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh túc, Thiện-thệ Thế-gian-giải, Vô-thượng sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn; ông sẽ cúng-dàng sáu mươi hai ức đức Phật, hộ-trì tạng-pháp vậy sau chứng được đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác, giáo-hóa hai mươi nghìn muôn ức hằng-hà sa các chúng Bồ-Tát vv... làm cho thành đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Nước tên là Thường-Lập-Thắng-Phan, cõi đó thanh-tịnh, đất bằng chất Lưu-Ly, kiếp tên Diệu-Âm-Biến-Mãn. Ðức Phật đó thọ-mệnh vô-lượng nghìn muôn ức vô-lượng a-tăng kỳ kiếp tính đếm số kể chẳng có thể biết được, chính-pháp trụ đời gấp bội thọ-mệnh, tượng-pháp lại gấp bội chính-pháp.
A-Nan! Ðức Phật Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thông-Vương đó, được vô-lượng nghìn muôn ức hằng-hà-sa các đức Phật Như-Lai ở mười-phương đồng ngợi khen công-đức của ngài.
Khi đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
3. Nay Ta nói trong Tăng
A-Nan, người trì pháp4. Bấy giờ, trong hội hàng Bồ-tát mới phát tâm, tám nghìn người, đều nghĩ thế này: "Chúng ta còn chưa nghe các vị Bồ-tát lớn được thụ-ký như thế, có nhân-duyên gì mà các Thanh-văn được thụ-ký như-thế."
Sẽ cúng-dàng các Phật
Vậy sau thành chính-giác
Hiệu rằng: Sơn-Hải-Tuệ
Tự-Tại-Thông-Vương Phật
Cõi nước kia thanh-tịnh
Tên Thường-Lập-Thắng-Phan
Giáo-hóa các Bồ-Tát
Số đông như hằng-sa
Phật có uy-đức lớn
Tiếng đồn khắp mười phương
Vì bởi thương chúng-sinh
Nên sống lâu vô-lượng
Chính-pháp bội thọ-mệnh
Tượng-pháp lại bội chính
Vô-số hàng chúng-sinh
Ðông như cát sông Hằng
Ở trong pháp Phật đó
Gieo nhân-duyên Phật-đạo.
Lúc ấy, đức Thế-Tôn biết tâm-niệm của các vị Bồ-Tát mà bảo rằng: "Các Thiện-nam tử! Ta cùng bọn ông A-Nan ở chỗ đức Phật Không-Vương đồng thời phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác. A-Nan thường ưa học rộng, còn ta thường siêng-năng tinh-tấn, cho nên nay ta đã thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác mà A-Nan hộ-trì pháp của ta, ông cũng sẽ hộ-trì pháp-tạng của các đức Phật tương lai, giáo-hóa thành-tựu các chúng Bồ-tát. Bản-nguyện của ông như thế nên được thụ-ký dường ấy."
Ngài A-Nan tận mặt ở trước Phật, tự nghe Phật thụ-ký cùng cõi nước trang-nghiêm, chỗ mong cầu đã đủ, lòng rất vui mừng được đều chưa từng có. Tức thời nghĩ nhớ tạng-pháp của vô-lượng nghìn muôn ức các đức Phật thuở quá-khứ, suốt thấu không ngại như hiện nay nghe và cũng biết bản-nguyện.
Khi đó, ngài A-Nan nói kệ rằng:
Thế-Tôn rất ít có5. Bấy giờ, Phật bảo ông La-Hầu-La: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu: Ðạo-Thất-Bảo-Hoa, Như-Lai Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật, Thế-Tôn. Ông sẽ cúng dường các đức Như-Lai như số vi-trần trong mười phương thế-giới. Thường vì các đức Phật mà làm trưởng-tử, cũng như hiện nay.
Khiến con nhớ quá-khứ
Vô-lượng các Phật-pháp
Như chỗ nghe ngày nay
Con nay không còn nghi
An-trụ trong Phật-đạo
Phương-tiện làm thị-giả
Hộ-trì các Phật-pháp.
Ðức Phật Ðạo-Thất-Bảo-Hoa đó, cõi nước trang-nghiêm, kiếp số thọ-mệnh, giáo-hóa đệ-tử, chính-pháp và tượng-pháp cũng đồng như đức Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thông-Vương Như Lai không khác. Ông cũng làm trưởng-tử cho Phật này, qua sau đây rồi sẽ được đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Lúc đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Lúc ta làm Thái-tử6. Bấy giờ, đức Thế-Tôn thấy bậc hữu-học cùng vô-học hai nghìn người, chí ý hòa-dịu vắng lặng trong sạch, một lòng nhìn Phật, Phật bảo A-Nan: "Ông thấy bực hữu-học vô-học nghìn người đây chăng?"
La-Hầu làm trưởng-tử.
Ta nay thành Phật-đạo
Thụ pháp làm pháp-tử.
Ở trong đời vị-lai
Gặp vô-lượng ức Phật
Làm trưởng-tử cho kia
Một lòng cầu Phật-đạo.
Hạnh kín của La-Hầu
Chỉ ta biết được thôi
Hiện làm con cả ta
Ðể chỉ các chúng-sinh
Vô-lượng ức nghìn muôn
Công-đức không thể đếm
An-trụ trong Phật-pháp
Ðể cầu đạo vô-thượng.
Vâng! Con đã thấy.
- A-Nan! Các người sẽ cúng-dàng các đức Như-Lai như số vi-trần trong năm mươi thế-giới, cung kính tôn-trọng hộ-trì pháp-tạng. Rốt sau đồng thòi ở cõi nước trong mười phương đều được thành Phật, đều đồng một hiệu la Bảo-Tướng Như-Lai Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ Ðiều-ngự trượng-phu. Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn, sống lâu một kiếp, cõi nước trang-nghiêm, Thanh-văn, Bồ-tát, chính-pháp, tượng-pháp thảy đều đồng nhau.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Hai nghìn Thanh-văn đâyLúc đó, bậc hữu-học cùng vô-học hai nghìn người nghe đức Phật thụ-ký vui mừng hớn-hở mà nói kệ rằng:
Nay đứng ở trước ta
Thảy đều thụ ký cho
Ðời sau sẽ thành Phật
Cúng-dàng các đức Phật
Như số trần nói trên.
Hộ-trì tạng-pháp Phật
Sau sẽ thành Chính-giác
Ðều ở nơi mười phương
Thảy đồng một danh-hiệu
Ðồng thời ngồi đạo-tràng
Ðể chứng tuệ vô-thượng
Ðều hiệu là Bửu-Tướng
Cõi nước cùng đệ-tử
Chính-pháp và tượng-pháp
Thảy đều không có khác.
Ðều dùng các thần-thông
Ðộ mười-phương chúng-sinh
Tiếng đồn vang khắp cùng
Lần nhập vào Niết-bàn.
Thế-Tôn đèn tuệ sáng
Con nghe tiếng thụ-ký
Lòng vui mừng đầy-đủ
Như được nước cam-lộ.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Pháp Sư' Thứ Mười
1. Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn nhân nói với Dược-Vương Bồ-Tát để bảo tám muôn đại sĩ rằng: "Dược-Vương! Trong đại-chúng đây vô-lượng hàng chư thiên, Long-Vương, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân, và Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng cầu Thanh-văn, hạng cầu Tích-Chi-Phật, hạng cầu Phật-đạo, các loại như thế đều ở trước Phật nghe kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa một bài kệ một câu nhẫn đến một niệm tùy-hỷ đó, ta đều thụ-ký cho sẽ được vô-thượng chính-đẳng-chính-giác."
Phật bảo Dược-Vương: "Lại sau khi đức Như-Lai diệt-độ, nếu có người nghe kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, nhẫn đến một câu niệm tùy hỷ đó, ta cũng thụ-ký đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác cho.
Nếu lại có người thụ-trì đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, nhẫn đến một bài kệ, đối kinh-điển này cung-kính xem như Phật. Các thứ cúng-dàng, hoa, hương, chuỗi ngọc hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng-phan, y-phục, kỹ nhạc, nhẫn đến chắp tay cung-kính. Dược-Vương nên biết! Các người trên đó đã từng cúng-dàng mười muôn ức Phật, ở chỗ các đức Phật thành-tựu chí nguyện lớn vì thương-xót chúng-sinh mà sinh vào nhân-gian.
Dược-Vương! Nếu có người hỏi những chúng-sinh nào ở đời vị-lai sẽ được làm Phật? Nên chỉ các người trên đó ở đời vị-lai ắt được làm Phật. Vì sao? Nếu có gã thiện-nam, người thiện-nữ nào ở nơi kinh Pháp-Hoa nhẫn đến một câu, thụ-trì, đọc tụng, giải nói biên chép. Các thứ cúng-dàng kinh quyển, hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt lọng lụa, tràng-phan, y-phục, kỹ-nhạc chắp tay cung-kính. Người đó tất cả trong đời đều nên chiêm-ngưỡng sùng phụng. Nên đem đồ cúng- dàng Như-lai mà cúng đó. Phải biết người đó là Bồ-tát lớn thành xong đạo vô-thượng chiùnh-đẳng chính-giác, vì thương xót chúng-sinh mà nguyện sinh trong đời để rộng nói phân-biệt kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa, huống lại người trọn hay thụ trì và các thứ cúng-dàng.
Dược-Vương nên biết! Người đó tự bỏ nghiệp-báo thanh-tịnh sau khi ta diệt độ vì thương chúng-sinh mà sinh nơi đời ác, rộng nói kinh này. Nếu người thiện-nam, người thiện-nữ đó, sau khi ta diệt-độ có thể riêng vì một người nói kinh Pháp-Hoa, nhẫn đến một câu, phải biết người đó là sứ của Như-Lai, đức Như-Lai sai làm việc của Như-Lai, huống là ở trong đại-chúng rộng vì người nói.
Dược-Vương! Nếu có người ác dùng tâm không lành ở trong một kiếp hiện ở trước Phật thường chê mắng Phật, tội đó còn nhẹ. Nếu có người dùng một lời dữ chê mắng người tại-gia hay xuất-gia đọc tụng kinh Pháp-Hoa, tội đây rất nặng.
Dược-Vương! Có người đọc tụng kinh Pháp-Hoa, phải biết người đó dùng đức trang-nghiêm của Phật tự trang-nghiêm mình, thời được Như-Lai dùng vai mang vác. Người đó đến đâu, mọi người nên hướng theo làm lễ, một lòng chắp tay cung kính cúng- dàng, tôn-trọng, ngợi-khen: hoa, hương, chuỗi-ngọc, hương-bột, hương-xoa, hương-đốt, lọng nhiễu, tràng-phan, y-phục, đồ cúng bậc thượng của trong loài người mà đem cúng-dàng cho người đó, nên cầm hoa báu trời mà rải cúng đó, nên đem đống báu trên trời dâng cho đó.
Vì sao? Người đó hoan-hỷ nói pháp, giây lát nghe pháp liền được rốt-ráo vô-thượng chính-đẳng chính giác vậy.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2. Nếu muốn trụ Phật đạo
Thành tựu trí tự-nhiên
Thường phải siêng cúng-dàng
Người Thụ-trì Pháp-Hoa.
Có ai muốn mau được
Nhất-thiết-chủng trí-tuệ
Nên thụ-trì kinh này
Và cúng-dàng người trì.
Nếu người hay thụ-trì
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa
Nên biết là sứ Phật
Thương nhớ các chúng-sinh
Những người hay thụ-trì
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa
Xa bỏ cõi thanh-tịnh
Thương chúng nên sinh đây
Phải biết người như thế
Chỗ muốn sinh tự-tại
Ở nơi đời ác này
Rộng nói pháp vô-thượng,
Nên đem hoa, hương trời
Và y-phục, báu trời
Ðống báu tốt trên trời
Cúng-dàng người nói pháp
Ðời ác, sau ta diệt
Người hay trì kinh này
Phải chắp tay lễ kính
Như cúng dường Thế-Tôn,
Ðồ ngon ngọt bậc thượng
Và các món y-phục
Cúng-dàng Phật-tử đó
Mong được giây lát nghe.
Nếu người ở đời sau
Hay thụ-trì kinh này
Ta khiến ở trong người
Làm việc của Như-Lai.
Nếu ở trong một kiếp
Thường ôm lòng chẳng lành
Ðỏ mặt mà mắng Phật
Mắc vô-lượng tội nặng
Có người đọc tụng trì
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này
Giây lát dùng lời mắng
Tội đây còn hơn kia.
Có người cầu Phật-đạo
Mà ở trong một kiếp
Chắp tay ở trước ta
Dùng vô-số kệ khen
Do vì khen Phật vậy
Ðược vô-lượng công-đức.
Khen ngợi người trì kinh
Phước đây lại hơn kia.
Trong tám mươi ức kiếp
Dùng sắc thanh tối diệu
Và cùng hương, vị, xúc
Cúng-dàng người trì kinh
Cúng-dàng như thế rồi
Mà được chốc lát nghe
Thời nên tự mừng vui
Nay ta được lợi lớn
Dược-Vương! Nay bảo ông
Các kinh của ta nói
Mà ở trong kinh đó
Pháp-Hoa tột thứ nhất.
3. Lúc bấy giờ, Phật lại bảo ngài Dược-Vương Ðại Bồ-tát: "Kinh điển của ta
nói nhiều vô-lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói, mà ở trong đó kinh Pháp-Hoa rất là khó tin khó hiểu.
Dược-Vương kinh này là tạng bí-yếu của các đức Phật, chẳng có thể chia bủa vọng trao cho người. Kinh đây là của các đức Phật giữ gìn từ xưa đến nay chưa từng bày nói, mà chính kinh này khi Như-Lai đương hiện-tại còn nhiều kẻ oán-ghét, huống là sau lúc Phật diệt-độ.
Dược-Vương nên biết! Sau khi Như-Lai diệt-độ, người nào có thể biên chép, thụ-trì, đọc tụng, cúng-dàng vì người khác mà nói, thời được Như-Lai lấy y trùm đó, lại được các căn lành, phải biết người đó cùng Như-Lai ở chung, được đức Như-Lai lấy tay xoa đầu.
4. Dược-Vương! Nơi nơi, chổ chổ, hoặc nói, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc chép,
hoặc chỗ có quyển kinh này đều nên dựng tháp bằng bảy thứ báu cho tột cao rộng đẹp-đẽ, chẳng cần để xá-lợi.
Vì sao? Vì trong đó đã có toàn thân của đức Như-Lai rồi. Tháp đó nên dùng tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, lọng lụa, tràng-phan, kỹ-nhạc, ca tụng, để cúng dường cung kính tôn-trọng ngợi khen. Nếu có người thấy được pháp này mà lễ lạy cúng-dàng, phải biết những người đó đều gần đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Dược-Vương! Có rất nhiều người tại-gia làm đạo Bồ-tát, nếu chẳng có thể thấy nghe, đọc tụng, biên chép thụ-trì, cúng-dàng được kinh Pháp-Hoa này, phải biết người đó chưa khéo tu đạo Bồ-tát. Nếu có người được nghe kinh điển này, mới là khéo tu đạo Bồ-tát. Có chúng-sinh nào cầu Phật-đạo hoặc thấy hoặc nghe kinh Pháp-Hoa này, nghe xong tin hiểu thụ-trì, nên biết người đó được gần đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Dược-Vương! Thí như có người khát tìm nước ở nơi gò cao kia xoi đào tìm đó, vẫn thấy đất khô biết rằng nước còn xa, ra công đào không thôi, lần thấy đất ướt rồi lần đến bùn, tâm người đó quyết chắc biết rằng nước ắt gần.
Bồ-tát cũng lại như thế, nếu chưa nghe chưa hiểu chưa có thể tu-tập kinh Pháp-Hoa này, phải biết người đó cách đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác còn xa.
Nếu được nghe hiểu suy-gẫm tu-tập kinh này, thời chắc biết được gần vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Vì sao? Vì đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác của Bồ-tát đều thuộc kinh này, kinh này mở môn phương-tiện bày tướng chân-thực. Tạng kinh Pháp-Hoa này, xa kín nhiệm sâu không có người đến được, nay Phật vì giáo-hóa để thành-tựu Bồ-tát mà chỉ bày cho.
Dược-Vương! Nếu có Bồ-tát nghe kinh Pháp-Hoa này mà kinh nghi sợ sệt, phải biết đó là Bồ-tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh-Văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt, phải biết đó là hàng tăng-thượng-mạn. (7)
5. Dược-Vương! Nếu có người thiện-nam, người thiện-nữ nào, sau khi đức
Như-Lai diệt độ muốn vì hàng bốn chúng mà nói kinh Pháp-Hoa này thời phải nói cách thế nào? Người thiện-nam, thiện-nữ đó phải vào nhà Như-Lai, mặc y Như-Lai, ngồi tòa Như-Lai, rồi mới nên vì bốn-chúng mà rộng nói kinh này.
Nhà Như-Lai chính là tâm từ-bi lớn đối với trong tất cả chúng-sinh, y Như-Lai chính là lòng nhu-hòa nhẫn nhục, tòa Như-Lai chính là nhất-thiết pháp không. An-trụ trong đây, sau rồi dùng tâm không biếng trễ vì các Bồ-tát và bốn-chúng rộng nói kinh Pháp-Hoa này.
Dược-Vương! Bấy giờ ta ở nước khác sai hàng hóa-nhân làm chúng nhóm nghe pháp của người đó, ta cũng sai hóa Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe người đó nói pháp. Các người biến-hóa đó nghe pháp tin nhận thuận theo không hề trái. Nếu người nói pháp ở chổ vắng-vẻ, ta liền sai nhiều trời, rồng, quỉ, thần, Càn-thát-bà, A-tu-la v.v... nghe người đó nói pháp. Ta dầu ở nước khác nhưng luôn luôn khiến người nói pháp đó được thấy thân ta. Nếu ở trong kinh này quên mất câu lối, ta lại vì nói cho đó được đầy-đủ.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
6. Muốn bỏ tính biếng-lười
Nên phải nghe kinh này
Kinh này khó được nghe
Người tin nhận cũng khó.
Như người khát cần nước
Xoi đào nơi gò cao
Vẫn thấy đất khô ráo
Biết cách nước còn xa
Lần thấy đất ướt bùn
Quyết chắc biết gần nước
Dược-Vương! Ông nên biết
Các người như thế đó
Chẳng nghe kinh Pháp-Hoa
Cách trí Phật rất xa,
Nếu nghe kinh sâu này
Quyết rõ pháp Thanh-văn
Ðây là vua các kinh
Nghe xong suy gẫm kỹ
Phải biết rằng người đó
Gần nơi trí-tuệ Phật
Nếu người nói kinh này
Nên vào nhà Như-Lai
Mà ngồi tòa Như-Lai
Ở trong chúng không sợ
Rộng vì người giải nói,
Từ-bi lớn làm nhà
Y nhu-hòa nhẫn-nhục
Các pháp không làm tòa
Ở đóvì người nói.
Nếu lúc nói kinh này
Có người lời ác mắng
Dao, gậy, ngói, đá đánh
Nhớ Phật nên phải nhịn
Ta trong muôn ức cõi
Hiện thân sạch bền chắc
Trải vô-lượng ức kiếp
Vì chúng sinh nói Pháp.
Sau khi ta diệt-độ
Nếu hay nói kinh này
Ta sai hóa tứ-chúng
Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni
Và nam, nữ thanh-tịnh
Cúng-dàng nơi Pháp-sư
Dẫn dắt các chúng-sinh
Nhóm đó khiến nghe pháp.
Nếu người muốn làm hại
Dao gậy cùng ngói đá
Thời khiến người biến-hóa
Giữ-gìn cho người đó
Nếu người nói Pháp-Hoa
Ở riêng nơi vắng-vẻ
Lặng-lẽ không tiếng người
Ðọc tụng kinh điển này
Bấy giờ ta vì hiện
Thân thanh-tịnh sáng suốt
Nếu quên mất chương cú
Vì nói khiến thông thuộc.
Nếu người đủ đức này
Hoặc vì bốn chúng nói
Chổ vắng đọc tụng kinh
Ðều được thấy thân ta
Nếu người ở chổ vắng
Ta sai Trời, Long-Vương
Dạ-xoa, quỉ, thần thảy
Vì làm chúng nghe pháp.
Người đó ưa nói pháp
Phân giải không trở-ngại
Nhờ các Phật hộ-niệm
Hay khiến đại-chúng mừng
Nếu ai gần Pháp-sư
Mau được đạo Bồ-tát
Thuận theo thầy đó học
Ðược thấy hằng-sa Phật.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Hiện Bửu Tháp' Thứ Mười Một
Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giửa hư - không; các món vật báu trau-giồi, năm nghìn bao-lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô-số tràng-phan để nghiêm sức đó, chuỗi ngọc báu rủ xuống, muôn nghìn linh báu treo trên tháp. Bốn mặt đều thoảng đưa ra mùi hương gỗ ly-cấu chiên-đàn khắp cùng cả cõi nước.
Các phan lọng đều dùng bảy thứ báu, vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã-não, chân-châu và mai-khôi hợp lại thành, cao đến ngang cung trời Tứ-thiên-vương, trời Ðao-Lợi rưới hoa mạn-đà-la cúng dàng tháp báu.
Các trời khác và rồng, dạ-xoa, càn thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi-nhân v.v... nghìn muôn ức chúng đều đem tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, phan lọng, kỹ-nhạc mà cúng dàng tháp báu, đồng cung-kính tôn-trọng ngợi-khen.
Bấy giờ trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Ðức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn! có thể dùng tuệ lớn bình-đẳng vì đại-chúng nói kinh giáo Bồ-Tát Pháp Phật sở Hộ-niệm Diệu-pháp Liên-hoa. Ðúng thế! Ðức Thích-Ca Mâu-ni Thế-Tôn! như lời Phật nói đó, đều chân-thực."
2.--- Bấy giờ, bốn-chúng thấy tháp báu lớn trụ trong hư-không, lại nghe trong tháp vang tiếng nói ra đều được pháp-hỷ, lấy làm lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay rồi đúng một bên.
Lúc đó, có vị đại Bồ-tát tên Ðại-Nhạo-Thuyết biết lòng nghi của tất cả trời, người, a-tu-la, v.v... trong thế-gian mà bạch Phật rằng: "Bạch Thế-Tôn! Do nhân-duyên gì mà có tháp này từ đất nổi lên, lại ở trong tháp vang ra tiếng như thế?"
Lúc đó, Phật bảo ngài Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát: "Trong tháp báu này có toàn thân Như-Lai, thời quá-khứ về trước cách đây vô-lượng nghìn muôn ức vô-số cõi nước ở phương đông có nước tên Bảo-Tịnh, trong nước đó có Phật hiệu là Ða-Bảo, đức Phật đó tu hành đạo Bồ-Tát phát lời thệ-nguyện lớn rằng: "Nếu ta được thành Phật sau khi diệt-độ trong cõi nước ở mười-phương có chỗ nào nói kinh Pháp-Hoa, thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng-minh khen rằng: "Hay thay!" Ðức Phật đó thành Phật rồi lúc sắp diệt-độ ở trong đại-chúng trời, người bảo các Tỷ-khiêu rằng: "Sau khi ta diệt-độ muốn cúng-dàng toàn thân của ta thời nên dựng một tháp lớn."
Ðức Phật đó dùng sức nguyện thần-thông nơi nơi chỗ chỗ trong mười phương cõi nước, nếu có nói kinh Pháp-Hoa, thời tháp báu đó đều nổi ra nơi trước, toàn thân Phật ở trong tháp khen rằng: "Hay thay! Hay thay!"
Ðại-Nhạo-Thuyết! Nay tháp của Ða-Bảo Như-Lai vì nghe nói kinh Pháp-Hoa nên từ dưới đất nổi lên khen rằng: "Hay thay! Hay thay!"
3.--- Bấy giờ, ngài Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát do sức thần của đức Như-Lai mà bạch Phật rằng: "Bạch Thế-Tôn! Chúng con nguyện muốn thấy thân của đức Phật đó". Phật bảo ngài Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát Ma-ha-tát: Phật Ða-Bảo đó có nguyện sâu nặng: "Nếu lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp-Hoa mà hiện ra nơi trước các đức Phật, có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn-chúng, thời các vị Phật của Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cõi nước trong mười-phương đều phải nhóm cả một chỗ, vậy sau thân của ta mới hiện ra".
Ðại-Nhạo-Thuyết! Các vị Phật của ta phân thân nói pháp ở các cõi nước trong mười-phương nay nên sẽ nhóm lại". Ngài Ðại-Nhạo-Thuyết bạch Phật rằng: "Thưa Thế-Tôn! Chúng con cũng nguyện muốn thấy các vị Phật của Thế-Tôn phân thân để lễ lạy cúng-dàng."
4.--- Bấy giờ, Phật phóng một lằn sáng nơi lông trắng giữa chặn mày, liền thấy năm trăm muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa cõi nước ở phương Ðông. Các cõi nước đó đều dùng pha-lê làm đất, cây báu, y báu để làm đồ trang-nghiêm, vô-số nghìn muôn ức Bồ-Tát đầy dẫy trong nước đó. Khắp nơi giăng màn báu, lưới báu phủ trên, đức Phật trong nước đó đều dùng tiếng lớn tốt mà nói các pháp, và thấy vô - lượng nghìn muôn ức Bồ-Tát khắp đầy trong nước đó vì chúng - sinh mà nói pháp. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên dưới chỗ tướng sáng lông trắng chiếu đến cũng lại như thế.
Lúc đó, các Phật ở mười - phương đều bảo chúng Bồ-Tát rằng: Thiện-nam-tử! Ta nay phải qua thế-giới Ta-Bà, chỗ của đức Thích - Ca Mâu -Ni Phật, cùng để cúng-dàng tháp báu của Ða-Bảo Như-Lai."
5.--- Lúc bấy giờ, cõi Ta-bà liền biến thành thanh-tịnh, đất bằng lưu-ly, cây báu trang-nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng ngăn tám đường, không có các tụ lạc làng xóm, thành ấp, biển cả, sông ngòi, núi sông cùng rừng bụi. Ðốt hương báu lớn, hoa mạn-đà-la trải khắp cõi đất, dùng lưới màn báu giăng trùm ở trên, treo những linh báu, chỉ lưu lại chúng trong hội này, dời các trời người để ở cõi khác.
Lúc đó các đức Phật đều đem theo một vị Bồ-tát lớn để làm thị-giả qua cõi Ta-bà đều đến dưới cây báu, mỗi mỗi cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh lá hoa trái thứ lớp rất trang-nghiêm. Dưới các cây báu đều có tòa sư-tử cao năm do-tuần cũng dùng đồ báu tốt mà trau-giồi đó.
Khi ấy, các đức Phật đều ngồi xếp bằng trên tòa này, như thế lần-lượt đến khắp đầy cả cõi tam-thiên đại-thiên mà ở nơi thân của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật phân ra trong một phương vẫn còn chưa hết.
Bấy giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni vì muốn dung thụ các vị Phật của mình phân thân, nên ở tám phương lại biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh-tịnh, không có địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sinh cùng a-tu-la, lại cũng dời các hàng trời người để ở cõi khác.
Những nước của Phật biến hóa ra đó cũng dùng lưu-ly làm đất, cây báu trang-nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá hoa trái đều có thứ lớp tốt đẹp, dưới cây đều có tòa báu sư-tử cao năm do-tuần, dùng các thứ báu để trau-giồi. Những nước đó cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mục-chân-lân-đà, núi Thiết-vi, núi Ðại Thiết-vi, núi Tu-di v.v... thông làm một cõi nước Phật, đất báu bằng thẳng, các báu xen lẫn nhau làm màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu lớn, các hoa trời báu trải khắp trên đất.
Ðức Thích-Ca Mâu-Ni Phật vì các Phật sẽ đến ngồi, nên ở nơi tám phương lại đều biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh-tịnh, không có địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sinh và a-tu-la, lại dời các hàng trời người để ở cõi khác. Những nước biến - hóa ra đó cũng dùng lưu-ly làm đất, cây báu trang-nghiêm, cao năm trăm do-tuần nhánh lá hoa trái thứ tự bằng báu cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu tốt mà trau-giồi đó.
Những nước này cũng không có biển cả sông ngòi và các núi: núi Mục-chân-lân-đà, núi Ðại Mục-chân-lân-đà, núi Thiết-vi, núi Ðại Thiết-vi, núi Tu-di v.v..., thông lại làm một cõi nước Phật đất báu bằng thẳng, các báu đương xen lẫn nhau thành màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu tốt, các thứ hoa trời báu trải khắp trên đất.
Bấy giờ, ở phương Ðông, các đức Phật trong trăm nghìn muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa cõi nước của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật phân thân ra, thảy đều nói pháp đến nhóm ở cõi này. Tuần-tự như thế, các đức Phật trong cõi nước ở mười-phương thảy đều đến mỗi mỗi phương các đức Như-Lai ngồi khắp đầy trong bốn trăm muôn ức na-do-tha cõi nước.
6.--- Lúc đó, các đức Phật đều ngồi tòa sư-tử dưới cây báu, đều sai vị thị-giả qua thăm viếng đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, đều đưa cho đầy bụm hoa báu mà bảo thị-giả rằng: Thiện-nam-tử! Ngươi qua đến núi Kỳ-xà-Quật, chỗ của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, theo như lời của ta mà thưa cùng Phật thế này: "Như-Lai có được ít bệnh ít khổ sức khỏe an-vui, và chúng Bồ-tát cùng Thanh-văn đều an-ổn chăng?" Rồi đem hoa báu này rải trên Phật để cúng-dàng mà thưa rằng: "Ðức Phật kia cùng muốn mở tháp báu này." Các đức Phật sai người đến cũng như vậy.
Bấy giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật thấy các vị Phật của mình phân thân đến ngồi trên tòa sư-tử, đều nghe các Phật cùng muốn đồng mở tháp báu, Phật liền từ chổ ngồi đứng dậy trụ trên hư-không, tất cả hàng bốn-chúng đồng đứng dậy chắp tay một lòng nhìn Phật.
Khi ấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật dùng ngón tay hữu mở cửa tháp bảy báu vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn.
Tức thời tất cả chúng trong hội đều thấy đức Ða-Bửu Như-Lai ở trong tháp báu ngồi tòa sư-tử, toàn thân không rã như vào cảnh thuyền-định lại nghe Phật đó nói: "Hay thay! Hay thay! Thích-Ca Mâu-Ni Phật sướng thích nói kinh Pháp-Hoa đó, ta vì nghe kinh đó mà đến cõi này."
Bấy giờ, hàng tứ-chúng thấy đức Phật đã diệt-độ vô-lượng nghìn muôn ức kiếp về trước nói lời như thế đều khen là việc chưa từng có, đều đem hoa trời báu rải trên đức Phật Ða-Bửu và Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
Lúc đó đức Ða-Bửu Phật ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Thích-Ca Mâu-Ni Phật mà nói rằng: "Thích-Ca Mâu-Ni có thể đến ngồi trên tòa này." Tức thời đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật vào trong tháp báu ngồi xếp bằng trên nửa tòa đó.
Bấy giờ, hàng đại - chúng thấy hai đức Như-Lai xếp bằng trên tòa sư-tử trong tháp bảy báu thời đều nghĩ rằng: "Ðức phật ngồi trên cao xa, cúi mong đức Như-Lai dùng sức thần-thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư-không".
Tức thời đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật dùng sức thần-thông thiếp hàng đại-chúng đều ở hư-không, rồi dùng tiếng lớn mà khắp bảo đó rằng: "Ai có thể ở trong cõi Ta-bà này rộng nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa nay chính phải lúc. Như-Lai không bao lâu sẽ vào Niết Bàn, Phật muốn đem kinh Pháp-Hoa này phó-chúc cho có người".
Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
7.--- Ðấng Thánh Chúa Thế-Tôn.
Dù diệt-độ đã lâu
Ở trong tháp báu này
Còn vì pháp mà đến
Các ông lại thế nào
Há chẳng siêng vì pháp?
Phật Ða-Bửu diệt-độ
Ðã vô-lượng số-kiếp
Nơi nơi đến nghe pháp
Vì khó gặp được vậy.
Phật kia bản-nguyện rằng:
Sau khi ta diệt-độ
Nơi nơi tháp ta qua
Thường vì nghe Pháp-Hoa
Lại vô-lượng các Phật.
Số nhiều như hằng-sa
Của ta phân thân ra
Vì muốn đến nghe pháp
Và cùng để ra mắt
Phật diệt-độ Ða-Bửu.
Nên đều bỏ cõi đẹp.
Cùng với chúng đệ-tử
Trời, người, rồng thần thảy
Và các việc cúng-dàng
Muốn pháp lâu ở đời
Cho nên đến cõi này.
Ta vì các Phật ngồi
Dùng sức thần-thông lớn
Dời vô-lượng trời người
Làm cho nước thanh-tịnh.
Các đức Phật mỗi mỗi
Ðều đến dưới cây báu
Như hoa sen trang-nghiêm
Nơi ao báu trong sạch
Dưới mỗi cây báu đó
Có tòa báu sư-tử (8)
Phật xếp bằng ngồi trên
Sáng-suốt rất đẹp đẽ
Như giữa đêm tối-tăm
Ðốt đuốc lớn lửa sáng.
Thân Phật thoảng hương thơm
Bay khắp mười-phương nước
Chúng-sinh được hương xông
Vui mừng không kể xiết
Thí như luồng gió lớn
Thổi lay nhánh cây nhỏ
Dùng cách phương-tiện đó
Làm cho Pháp ở lâu.
8.--- Nói cùng hàng đại-chúng
Sau khi ta diệt-độ
Ai có thể hộ-trì
Ðọc nói kinh Pháp này
Thời nay ở trước Phật
Nên tự phát lời thệ.
Coi Phật Ða-Bửu kia
Dầu đã diệt từ lâu
Do bản thệ nguyện rộng
Mà còn rền tiếng lớn.
Ðức Ða-Bửu Như-Lai
Và cùng với thân ta
Nhóm họp các hóa Phật
Phải nên biết ý này.
Các hàng Phật-tử thảy
Ai có thể hộ pháp
Nay nên pháp-nguyện lớn
Khiến pháp ở đời lâu
Có ai hay hộ được
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này
Thời là đã cúng-dàng
Thích-Ca cùng Ða-Bửu.
Ðức Ða-Bửu Phật đây
Ở trong tháp báu lớn
Thường dạo qua mười-phương
Vì để nghe kinh này.
Cũng là để cúng-dàng
Các hóa - Phật đến nhóm
Trang nghiêm rất sáng đẹp
Các thế-giới vô-lượng.
Nếu người nói kinh này
Thời là đã thấy ta
Cùng Ða-Bửu Như-Lai
Và các vị hóa - Phật.
9.--- Các thiện-nam-tử này
Ðều nên suy-nghĩ kỹ
Ðây là việc rất khó
Phải phát - nguyện rộn lớn
Bao nhiêu kinh điển khác
Số nhiều như hằng-sa
Dầu nói hết kinh đó
Cũng chưa đủ làm khó,
Hoặc đem núi Diệu-Cao
Ném để ở phương khác
Cách vô-số cõi Phật
Cũng chưa lấy làm khó.
Nếu người dùng ngón chân
Ðộng cõi nước Ðại-thiên
Ném xa qua cõi khác
Cũng chưa lấy làm khó,
Hoặc đứng trên hữu-đỉnh
Nói vô-lượng kinh khác
Vì để dạy bảo người
Cũng chưa lấy làm khó.
Nếu sau lúc Phật diệt
Người ở trong đời ác
Có thể nói kinh này
Ðây thời rất là khó,
Giả-sử lại có người
Dùng tay nắm hư-không
Ðể mà khắp dạo đi
Cũng chưa lấy làm khó.
Sau khi ta diệt-độ
Nếu người tự thư trì (9)
Hoặc bảo người thư trì
Ðây thời là rất khó,
Hoặc đem cả cõi đất
Ðể trên móng ngón chân
Bay lên đến Phạ.-thiên
Cũng chưa lấy làm khó,
Sau khi Phật diệt-độ
Người ở trong đời ác
Tạm đọc kinh pháp này
Ðây thời mới là khó.
Giả-sử gặp kiếp-thiêu (10)
Gánh mang những cỏ khô
Vào lửa không bị cháy
Cũng chưa lấy làm khó,
Sau khi ta diệt độ
Nếu người trì kinh này
Vì một người mà nói
Ðây thời mới là khó
Hoặc người trì tám muôn
Bốn nghìn các tạng pháp
Ðủ mười hai bộ kinh
Vì người mà diễn nói
Khiến các người nghe pháp
Ðều được sáu thần-thông
Dù được như thế đó
Cũng chưa lấy làm khó
Sau khi ta diệt-độ
Nghe lãnh kinh điển này
Hỏi nghĩa thú trong kinh
Ðây thời mới là khó.
Hoặc có người nói pháp
Làm cho nghìn muôn ức
Ðến vô - lượng vô - số
Hằng - hà - sa chúng-sinh
Chứng được A-La-Hán
Ðủ sáu phép thần-thông
Dầu có lợi ích đó
Cũng chưa phải là khó,
Sau khi ta diệt-độ
Nếu người hay phụng-trì
Những kinh điển như đây
Ðây thời là rất khó.
10.--- Ta vì hộ Phật-đạo
Ở trong vô-lượng cõi
Từ thuở trước đến nay
Rộng nói nhiều các kinh
Mà ở trong kinh đó
Kinh này là bậc nhất
Nếu có người trì được
Thời là trì thân Phật,
Các Thiện-nam-tử này
Sau khi ta diệt-độ
Ai có thể thụ-trì
Và đọc tụng kinh này
Thời nay ở trước Phật
Nên tự nói lời thệ.
Kinh pháp đây khó trì
Nếu người tạm trì đó
Thời ta rất vui mừng
Các đức Phật cũng thế
Người nào được như vậy
Các đức Phật thường khen
Ðó là rất dũng mãnh
Ðó là rất tinh-tấn
Gọi là người trì-giới
Bậc tu hạnh Ðầu-đà (11)
Thời chắc sẽ mau được
Quả vô-thượng Phật-đạo.
Có thể ở đời sau
Ðọc trì kinh pháp này
Là chân-thực Phật-tử
Trụ ở bậc thuần-thiện,
Sau khi Phật diệt-độ
Có thể hiểu nghĩa này
Thời là mắt sáng-suốt
Của trời người trong đời
Ở trong đời kinh sợ
Hay nói trong chốc lát
Tất cả hàng trời người
Ðều nên cúng-dàng đó.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Ðề-Bà-Ðạt-Ða' Thứ Mười Hai
1.--- Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ-Tát và hàng trờI, ngườI, bốn chúng: "Ta ở trong vô-lượng kiếp về thời quá-khứ cầu kinh Pháp-hoa không có lười mỏi. Trong nhiều kiếp thường làm vị quốc-vương phát nguyện cầu đạo vô-thượng bồ-đề, lòng không thối-chuyển. Vì muốn đầy đủ sáu pháp ba-la-mật nên siêng làm việc bố-thí lòng không lẫn tiếc, bố-thí voi, ngựa, bảy báu, nước thành, vợ, con, tôi-tớ, bạn-bè, cho đến đầu, mắt, tủy, óc, thân, thịt, tay, chân, chẳng tiếc thân-mệnh.
Thuở đó, nhân-dân trong đời sống lâu vô-lượng, vua vì mến pháp nên thôi bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho Thái-Tử. Ðánh trống ra lệnh cầu pháp khắp bốn phương: "Ai có thể vì ta nói pháp đại-thừa, thời ta sẽ trọn đời cung cấp hầu hạ."
Khi ấy có vị tiên - nhân đến thưa cùng vua rằng: "Ta có pháp đại-thừa tên là kinh "Diệu-Pháp Liên-Hoa", nếu đại-vương không trái ý ta, ta sẽ vì đại-vương mà tuyên nói."
Vua nghe lời vị tiên-nhân nói, vui mừng hớn-hở, liền đi theo vị tiên-nhân để cung cấp việc cần dùng: hoặc hái trái, gánh nước, hoặc lượm củi, nấu ăn cho đến dùng thân mình làm giường ghế, thân tâm không biết mỏi. Thuở đó theo phụng thờ vị tiên-nhân trải qua một nghìn năm, vì trọng pháp nên siêng-năng cung cấp hầu hạ cho tiên-nhân không thiếu-thốn.
Bãy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2.--- Ta nghớ kiếp quá-khứ
Vì cầu pháp đại-thừa
Dàu làm vị quốc vương
Chẳng ham vui ngũ-dục
Ðánh chuông rao bốn - phương
Ai có pháp đại-thừa
Nếu vì ta giải nói
Thân sẽ làm tôi-tớ.
Giờ có tiên Trường-thọ
Ðến thưa cùng Ðại-vương
Ta có pháp nhiệm-mầu
Trong đời ít có được
Nếu có thể tu hành
Ta sẽ vì ông nói.
Khi vua nghe tiên nói
Sinh lòng rất vui đẹp
Liền đi theo tiên-nhân
Cung cấp đồ cần dùng
Lượm củi và rau trái
Theo lời cung-kính dâng
Lòng ham pháp đại-thừa
Thân tâm không lười mỏi,
Khắp vì các chúng-sinh
Siêng cầu pháp mầu lớn
Cũng không vì thân mình
Cùng với vui ngũ-dục
Nên dầu làm vua lớn
Siêng cầu được pháp này
Do đó được thành Phật
Nay vẫn vì ông nói.
3.--- Phật bảo các Tỷ-khiêu rằng: "Thuở ấy, vua đó thời chính thân ta, còn tiên-nhân đó nay chính là ông Ðề-Bà-Ðạt-Ða. Do nhờ ông thiện-tri-thức Ðề-Bà-Ðạt-Ða làm cho ta đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, từ-bi hỷ-xả, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vàng tía, mười trí-lực, bốn món vô-sở-úy, bốn món nhiếp-pháp, mười tám món bất-cộng, thần-thông đạo lực, thành bậc đẳng chính-giác rộng độ chúng-sinh, tất cả công-đức đó đều là nhân thiện-tri-thức Ðề-Bà-Ðạt-Ða cả.
4.--- Phật bảo hàng tứ-chúng: "Qua vô-lượng kiếp về sau, ông Ðề-Bà-Ðạt-Ða sẽ được thành Phật hiệu là Thiên-Vương Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn. Cõi nước đó tên là Thiên-đạo, lúc Thiên-Vương Phật trụ ở đời hai mươi trung-kiếp, rộng vì các chúng-sinh mà nói pháp mầu, hằng-hà-sa chúng-sinh được quả A-la-hán, vô-lượng chúng-sinh phát tâm Duyên-giác, hằng-hà-sa chúng-sinh phát tâm vô-thượng đạo, được vô-sinh nhẫn đến bậc bất-thối-chuyển.
Sau khi đức Thiên-Vương Phật nhập Niết-bàn, chính-pháp trụ lại đời hai mươi trung kiếp, toàn thân xá-lợi dựng tháp bằng bảy báu, cao sáu mươi do-tuần. Các hàng trời nhân-dân đều đem hoa đẹp, hương bột, hương xoa, hương đốt, y-phục, chuỗi ngọc, tràng-phan, lọng báu, kỹ-nhạc, ca tụng để lễ lạy cúng-dàng tháp đẹp bằng bảy báu đó. Vô-lượng chúng-sinh được quả A-la-hán, vô-lượng chúng-sinh ngộ Tích-Chi Phật, bất-kkhả tư-nghì chúng-sinh phát tâm Bồ-đề đến bậc bất thối-chuyển".
Ðức Phật bảo các Tỷ-khiêu: "Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện-nam, người thiện-nữ nghe kinh Diệu-Pháp Liên-hoa phẩm Ðề-Bà-Ðạt-Ða, sinh lòng trong-sạch kính tin chẳng sinh nghi lầm, thời chẳng đọa địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh, được sinh ở trước các đức Phật trong mười-phương, chỗ người đó sinh ra thường được nghe kinh này. Nếu sinh vào cõi nhân thiên thời hưởng sự vui thắng diệu, nếu sinh ở trước Phật thờì từ hoa sen hóa sinh".
5.--- Bãy giờ, ở hạ phương vị Bồ-tát theo hầu đức Ða-Bửu Như-Lai tên là Trí-Tích bạch với đức Ða-Bửu-Phật nên trở về bản-quốc. Ðức Thích -Ca Mâu-Ni Phật bảo Trí-Tích rằng: "Thiện-nam-tử! Chờ giây lát, cõi đây có Bồ-Tát tên Văn-Thù-Sư-Lợi có thể cùng ra mắt nhau luận nói pháp mầu rồi sẽ về bản-độ".
Lúc đó, ngài Văn-Thù-Sư-Lợi ngồi hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, các vị Bồ-Tát cùng theo cũng ngồi hoa sen báu, từ nơi cung rồng Ta-Kiệt-La trong biển lớn tự-nhiên vọt lên trụ trong hư-không, đến núi Linh-Thứu, từ trên hoa sen bước xuống đến chỗ Phật, làm lễ xong, qua chỗ Trí-Tích cùng hỏi thăm nhau rồi ngồi một phía.
Ngài Trí-Tích Bồ-tát hỏi ngài Văn-Thù-Sư-Lợi rằng: "Ngài qua cung rồng hóa-độ chúng-sinh số được bao nhiêu?"
Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: "Số đó vô-lượng không thể tính kể, chẳng phải miệng nói được, chẳng phải tâm lường được, chờ chừng giây lát sẽ tự chứng biết".
Ngài Văn-Thù nói chưa dứt lời, liền có vô-số Bồ-tát ngồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh-Thứu trụ giữa hư-không. Các vị Bồ-Tát này đều là của ngài Văn-Thù-Sư-Lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ-tát đều chung luận nói sáu pháp ba-la-mật. Những vị mà trước kia là Thanh-Văn ở giữa hư-không nói hạnh Thanh-Văn nay đều tu-hành "nghĩa không" của đại-thừa.
Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói với ngài Trí-Tích rằng: "Tôi giáo-hóa ở nơi biển việc đó như thế".
Lúc ấy, ngài Trí-Tích Bồ-Tát nói kệ khen rằng:
Ðại-trí đức mạnh-mẽ
Hóa-độ vô-lượng chúng
Nay trong hội lớn này
Và tôi đều đã thấy
Diễn nói nghĩa thực tướng
Mở bày pháp nhất-thừa
Rộng độ các chúng-sinh
Khiến mau thành Bồ-Ðề.
6.--- Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: "Ta ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa".
Ngài Trí-Tích hỏi ngài Văn-Thù-Sư-Lợi rằng: "kinh này rất sâu vi-diệu là báu trong các kinh, trong đời rất ít có vậy có chúng-sinh nào siêng-năng tinh-tấn tu-hành kinh này mau được thành Phật chăng?
Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: có con gái của vua rồng Ta-Kiệt-La mới tám tuổi mà căn tính lanh-lẹ, có trí-tuệ, khéo biết các căn tính hành-nghiệp của chúng-sinh, được pháp tổng - trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thụ-trì, sâu vào thuyền-định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát-na phát tâm Bồ-Ðề được bậc bất-thối-chuyển, biện - tài vô-ngại, thương nhớ chúng-sinh như con đỏ, công-đức đầy-đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm-mầu rộng lớn, từ-bi nhân đức khiêm-nhường, ý-chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến Bồ-Ðề".
Trí-Tích Bồ-Tát nói rằng: "Tôi thấy đức Thích-Ca Như-Lai ở trong vô-lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công-đức để cầu-đạo Bồ-Ðề chưa từng có lúc thôi dứt: ta xem trong cõi tam-thiên đại-thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng bột cải, mà không phải là chỗ của Bồ-Tát bỏ thân mệnh để vì lợi-ích chúng-sinh, vậy sau mới được thành đạo Bồ-Ðề, chẳng tin Long-nữ đó ở trong khoảng giây lát chứng thành bậc chính-giác".
Nói luận chưa xong, lúc đó con gái của Long-Vương bỗng hiện ra nơi trước đầu mặt lễ kính Phật rồi đứng một phía nói kệ khen rằng:
Thấu rõ tướng tội phước
Khắp soi cả mười-phương
Pháp-thân tịnh vi-diệu
Ðủ ba mươi hai tướng
Dùng tám mươi món tốt
Ðể trang-nghiêm pháp-thân
Trời, người đều kính-ngưỡng
Long thần thảy cung-kính
Tất cả loài chúng-sinh
Không ai chẳng tôn-phụng
Lại nghe thành Bồ-đề
Chỉ Phật nên chứng biết
Tôi nói pháp đại-thừa
Ðộ thoát khổ chúng-sinh.
7.--- Bãy giờ, ngài Xá-Lợi-Phất nói với Long-nữ rằng: "Ngươi nói không bao lâu chứng được đạo vô-thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ-uế chẳng phải là pháp-khí, thế nào có thể được thành vô - thượng chính-giác? Ðạo Phật xa rộng phải trải qua vô-lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công-hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm Phạm-Thiên-Vương; hai, chẳng được làm Ðế-Thích; ba, chẳng được làm Ma-vương; bốn, chẳng được làm Chuyển-luân Thánh-vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế nào thân gái được mau thành Phật?".
Lúc đó, Long-nữ có một hột châu báu, giá-trị bằng cõi tam-thiên đại-thiên đem dâng đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long-nữ nói với Trí-Tích Bồ-Tát cùng tôn-giả Xá-LợI-Phất rằng: "Tôi hiến châu báu, đức Thế-Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?".
---Ðáp: "Rất mau".
---Long-nữ nói: "Lãy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó".
Ðang lúc đó cả chúng-hội đều thấy Long-nữ thoạt nhiên biến thành nam-tử, đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô-Cãu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thànhg bậc Ðẳng-chíng-giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món đẹp, khắp vì tất cả chúng-sinh trong mười-phương mà diễn nói pháp mầu.
Khi ấy trong cõi Ta-bà hàng Bồ-tát, Thanh-văn, Trời, Rồng, Bát-bộ, nhân cùng phi-nhân đều xa thấy Long-nữ kia thành Phật khắp vì hàng nhân thiên trong hội đó mà nói pháp, sinh lòng vui mừng đều xa kính lậy, vô-lượng chúng-sinh nghe pháp tỏ ngộ được bậc Bất-thối-chuyển, vô-lượng chúng-sinh được lãnh lời thụ-ký thành Phật. Cõi Vô Cãu sáu điệu vang-động, cõi Ta-bà ba nghìn chúng-sinh phát lòng Bồ-đề mà được lãnh lời thụ-ký.
Trí-Tích Bồ-Tát và ngài Xá-Lợi-Phất tất cả trong chúng-hội yên lặng mà tin nhận đó.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Trì' Thứ Mười Ba
1.--- Lúc bấy giờ, ngài Dược-Vương đại Bồ-tát và ngài Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-tát Ma-ha-tát cùng chung với quyến-thuộc hai muôn vị Bồ-tát đều ở trước Phật nói lời thệ rằng: "Cúi mong đức Thế-Tôn chớ lo, sau khi Phật diệt-độ chúng con sẽ phụng-trì đọc tụng nói kinh điển này, đời ác sau, chúng-sinh căn lành càng ít, nhiều kẻ tăng-thượng mạn tham lợi dưỡng cúng-dàng, thêm lớn căn chẳng lành, xa lìa đạo giải-thoát, dầu khó có thể giáo-hóa, chúng con sẽ khởi sức nhẫn lớn đọc tụng kinh này, thụ-trì giải nói biên chép, dùng các món cúng-dàng cho đến chẳng tiếc thân mệnh".
2.--- Lúc đó, trong chúng có năm trăm vị A-la-hán đã được thụ ký đồng bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Chúng con cũng tự thệ nguyện ở nơi cõi khác rộng nói kinh này".
Lại có bậc học và vô-học tám nghìn người đã được thụ-ký đồng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về phía Phật nói lời thệ rằng: "Thế-Tôn! Chúng con cũng sẽ ở cõi khác rộng nói kinh này. Vì sao! ---Vì người trong nước Ta-Bà nhiều điều tệ ác, ôm lòng Tăng-thượng-mạn, công-đức cạn mỏng, giận hờn, qua vạy tâm không chân thật".
3.--- Khi đó, dì của Phật là Ðại-Ái-Ðạo Tỳ-khiêu-ni cùng chung với bậc "học" và "vô học" Tỷ-khiêu-ni sáu nghìn người đồng từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng dung-nhan của Phật mắt chẳng tạm rời.
Bãy giờ, Thế-Tôn bảo Kiều-Ðàm-Di: "Cớ chi có sắc buồn mà nhìn Như-Lai, tâm ngươi toan không cho rằng ta chẳng nói đến tên ngươi, để thụ-ký thành vô-thượng chíng-đẳng chíng-giác ư?
Kiều-Ðàm-Di! Ta trước tổng nói tất cả Thanh-Văn đều đã được thụ-ký đó, đời tương-lai sau ngươi sẽ ở trong Pháp-Hội của sáu muôn tám nghìn ức đức Phật làm vị đại Pháp-Sư và sáu nghìn vị "học" "vô-học" Tỷ-khiêu-ni đều làm Pháp-sư. Ngươi lần lần đủ đạo hạnh Bồ-tát như thế sẽ được thành Phật hiệu là Nhất-thiết Chúng-Sinh-Hỷ-Kiến Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-Thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Kiều-Ðàm-Di! Ủức Nhất-thiết-Chúng-Sinh Hỷ-Kiến Phật đó và sáu nghìn Bồ-tát tuần tự thụ-ký được đạo vô-thượng chính-đẳng chính giác.
Bãy giờ, mẹ của La-Hầu-La là bà Gia-Du-Ðà-La Tỷ-khiêu-ni nghĩ rằng: "Thế-Tôn ở nơi trong hội thụ-ký riêng chẳng nói đến tên tôi".
Phật bảo bà Gia-Du-Ðà-La: "Ngươi ở đời sau trong pháp-hội của trăm nghìn muôn ức đức Phật, tu hạnh Bồ-tát, làm vị đại Pháp-Sư, lần lần đầy đủ Phật đạo ở trong cõi Thiện-Quốc sẽ được thành Phật hiệu là Cụ-Túc-Thiên-Vạn-Quang-Tướng Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn. Phật sống lâu vô-lượng vô-số kiếp.
Lúc đó bà Ðại-Ái-Ðạo Tỷ-khiêu-ni và bà Gia-Du-Ðà-La Tỷ-khiêu-ni cùng cả quyến thuộc đều rất vui mừng được việc chưa từng có, liền ở trước Phật mà nói kệ rằng:
Ðấng Thế-Tôn Ðạo-Sư
Làm an-ổn trời người
Chúng con nghe thụ-ký
Lòng an-vui đầy-đủ.
Các vị Tỷ-khiêu-ni nói kệ đó rồi, bạch Phật rằng: "Chúng con cũng có thể ở cõi nước phương khác rộng tuyên nói kinh này".
4.--- Bãy giờ, đức Thế-Tôn nhìn tám mươi muôn ức na-do-tha vị đại Bồ-tát, các vị Bồ-tát đó đều là bậc bất-thối-chuyển, chuyển pháp-luân bất-thối được các pháp tổng-trì, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật một lòng chắp tay mà nghĩ rằng: "Nếu đức Thế-Tôn dạy bảo chúng ta nói kinh này, thời chúng ta sẽ như là Phật dạy rộng tuyên nói pháp này".
Các vị đó lại nghĩ: Nay đức Phật yên lặng chẳng thấy dạy bảo, chúng ta phải làm thế nào?"
Lúc đó, các vị Bồ-tát kính thuận ý của Phật, và muốn tự thỏa mãn bàn nguyện, bèn ở trước Phật nói lớn tiếng mà phát lời thệ rằng: "Thế-Tôn, sau khi Như-Lai diệt độ, chúng con đi giáp vòng qua lại khắp mười phương thế-giới hay khiến chúng-sinh biên chép kinh này thụ-trì, đọc tụng, giải nói nghĩa đó, nghĩ nhớ chân chính, đúng như pháp mà tu hành, như thế đều là sức uy-thần của Phật. Cúi mong đức Thế-Tôn ở phương khác xa giữ-gìn cho".
Tức thời các vị Bồ-tát đều đồng tiếng mà nói kệ rằng:
5.--- Cúi mong Phật chớ lo
Sau khi Phật diệt-độ
Trong đờiác ghê sợ
Chúng con sẽ rộng nói.
Có những người vô-trí
Lời ác mắng rủa thảy
Và dao gậy đánh đập
Chúng con đều phải nhẫn.
Tỷ-khiêu trong đời ác
Trí tà lòng dua vạy
Chưa được nói đã được
Lòng ngã-man dẫy đầy,
Hoặc người mặc áo nạp
Lặng lẽ ở chỗ vắng
Tự nói tu chân-đạo
Khinh rẻ trong nhân-gian
Vì ham ưa danh-lợi
Nói pháp cho bạch-y
Ðược người đời cung-kính
Như lục thông La-Hán
Người đó ôm lòng ác
Thường nghĩ việc thế-tục
Giả danh "A-luyện-nhã"
Ưa nói lỗi chúng con
Mà nói như thế này
Các bọn Tỷ-khiêu này
Vì lòng tham lợi-dưỡng
Nói luận nghĩa ngoại-đạo
Tự làm kinh điển đó
Dối lầm người trong đời
Vì muốn cầu danh tiếng
Mà giải nói kinh đó
Thường ở trong đại-chúng
Vì muốn phá chúng con
Ðến Quốc-vương, quan lớn
Bà-La-Môn, cư-sĩ
Và chúng Tỷ-khiêu khác
Chê bai nói xấu con
Ðó là người tà-kiến
Nói luận nghĩa ngoại-đạo
Chúng con vì kính Phật
Ðều nhẫn các ác đó
Bị người đó khinh rằng
Các người đều là Phật
Lời khinh-mạn dường ấy
Ðều sẽ nhẫn thụ đó.
Trong đời ác kiếp-trược
Nhiều các sự sợ sệt
Quỉ dữ nhập thân kia
Mắng rủa hủy nhục con
Chúng con kính tin Phật
Sẽ mặc giáp nhẫn-nhục
Vì để nói kinh này
Nên nhẫn các việc khó,
Con chẳng mến thân mệnh
Chỉ tiếc đạo vô-thượng.
Chúng con ở đời sau
Hộ-trì lời Phật dặn
Thế-Tôn tự nên biết
Tỷ-khiêu ác đời trược
Chẳng biết Phật phương-tiện
Tùy cơ-nghi nói pháp
Chau mày nói lời ác
Luôn luôn bị xua đuổi
Xa rời nơi chùa tháp
Các điều ác như thế
Nhớ lời Phật dặn bảo
Ðều sẽ nhẫn việc đó
Các thành ấp xóm làng
Kia có người cầu pháp
Con đều đến chổ đó
Nói pháp của Phật dặn.
Con là sứ của Phật
Ở trong chúng không sợ
Con sẽ khéo nói pháp
Xin Phật an lòng ở
Con ở trước Thế-Tôn
Mười phương Phật đến nhóm
Phát lời thệ như thế
Phật tự rõ lòng con.
KINH DIỆU PHÁP LIÊN-HOA
QUYỂN THỨ TƯ
-------
Ôm châu đi làm thuê mướn, được chút ít cho là đủ. Nỏi Cao-nguyên đào giếng, chí cầu suối sâu. Tháp báu vọt lên giáo-hóa tròn khắp. Nhân cùng quả đồng nói. Pháp mầu ý khẩn cầu.
Nam-mô Pháp-Hoa Hội-thượng Phật Bồ-tát. (3 lần)
Năm trăm đệ-tử thụ-ký chứng quả Phật Ða-Bửu vọt ra trước, Ngài Nhạo-Thuyết hỏi căn nguyên. Vì pháp cầu thầy hiền, nghe diễn kinh Diệu-Liên.
Nam-mô Quá-khứ Ða-Bửu Phật. (3 lần)
----------
THÍCH NGHĨA
(1) 1.- Tỷ-khiêu, 2.- Tỷ-khiêu ni, 3.- Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
(2) Lãnh hội pháp mầu, lòng vui mừng, thân khoan khoái gọi là "pháp hỷ thực". Trụ trong thuyền-định, tâm an, thân khoẻ gọi là "Thuyền duyệt thực".
(3) 1.- Pháp vô ngại (có trí nói pháp suốt thông). 2.- Từ vô ngại (lời tiếng đầy đủ không trệ). 3.-Nghĩa vô ngại (nghĩa ý thấu đáo) 4.- Nhạo thuyết vô ngại (thường ưa thích nói pháp).
(4) 1.- Nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát - 2. Nội ô sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát- 3. Tịnh bội xả thân tác chứng giải-thoát - 4.-Hư không xứ giải-thoát--- 5.- Thức vô-biên xứ giải thoát ---6.- Vô sở hữu xứ giải-thoát ---7.- Phi hữu tưởng phi vô tưởng giải-thoát ---8.- Diệt thụ tưởng giải-thoát.
(5) Tham, sân, si.
(6) Sau khi Phật diệt-độ, thời kỳ đầu giáo pháp cùng người tu,chứng quả v.v., cũng như khi Phật còn tại thế thời gọi là "thời kỳ chính pháp". Lần lần người tu và chứng quả không được như trước thời gọi là "thời kỳ tượng-pháp" (tương tự).
(7) Ðược ít mà lầm tự cho là được nhiều, chứng bậc thấp mà lầm cho là chứng bậc cao.
(8) Sư-tử làm chúa loài muông thú, ở trong hàng thú tự-tại vô-úy. Tòa Sư-tử chính là lấy nghĩa tự-tại vô-úy đó.
(9) Biên chép và thụ trì.
(10) Một đại-kiếp có 4 kỳ trung-kiếp; 1. Trung-kiếp thành. 2. Trung-kiếp trụ 3. Trung-kiếp hoại 4. Trung-kiếp không --- Thành là kết cấu hiện thành thế-giới. Trụ là thời kỳ toàn vẹn thế-giới hữu tình đều đầy đủ như hiện nay đây vậy.. Hoại là hư rã, thế-giới hư rã do 3 nguyên nhân: A- Lửa, B- Nước, C- Gió. Trong đây kiếp thiêu chính là thời kỳ lửa cháy tan thế-giới. Tan hết là không.
(11) Tiếng Phạn, nghĩa là giũ sạch bụi nhơ (đầu tẩu) có 12 hạnh: 1. Mặc phấn-tảo y. 2. Chỉ ba y không được dư 3. Thường khất thực 4. Ngày một bửa ăn chính 5. Ngày một lần ngồi ăn. 6. Ăn có tiết lượng. 7. Ở chỗ vắng vẻ 8. Ngồi trong gò mã 9. Ngồi dưới bóng cây 10. Ngồi chỗ trống 11. Tùy hạp ngồi 12. Ngồi luôn không nằm.
------------
Sự tích
TUNG ÐỀ KINH
MÌNH VÀ NGƯỜI ÐỀU THOÁT KHỔ
Quận Phùng-Dực, ông Lý-sơn-Long làm chức Tả-giám môn Hiệu-úy trong niên hiệu Võ-Ðức bạo chết, mà trên ngực khoảng bằng bàn tay không lạnh, người nhà chưa nỡ tẩn-liệm. Ðên ngày thứ bảy sống lại thuật rằng: "Ðang lúc chết bị người bắt dẫn đến một dinh quan rất hùng tráng rộng lớn. Trong sân có bọn tù vài nghìn người, hoặc mang gông, hoặc xiềng xích đều đứng xây mặt về hướng Bắc, chật cả sân.
Quân hầu dắt Sơn-Long đến dưới dinh. Có một vị Thiên-Quan ngồi giường cao kẻ hầu hạ nghi-vệ như hàng vua chúa. Sơn-Long hỏi quân hầu: "Quan nào đó?" -- Quân hầu đáp: "Vua đãy". Sơn-Long đến dưới thềm -- Vua hỏi: "Người thuở sanh bình làm phước nghiệp gì?" Sơn-Long thưa: "Tôi tụng thuộc kinh Pháp-Hoa hai quyển" Vua nói: "Rất hay! Ðược lên thềm". Ông Long đã lên trên nhà thấy phía Ðông-Bắc có một tòa cao giống như tòa diễn giảng. Vua chỉ tòa nói với Sơn-Long rằng: "Nên lên tòa này tụng kinh". Sơn-Long vâng lệnh đến bên tòa. Vua liền đứng dậy nói: "Thỉnh Ngài Pháp-sư lên tòa". Sơn-Long lên tòa xong. Vua liền xây về phía tòa mà ngồi. Sơn-Long khai kinh tụng rằng: "Diệu-Pháp Liên -Hoa kinh, tự phẩm đệ nhứt". Vua nói "Thỉnh Pháp-sư thôi" Sơn-Long liền thôi xuống tòa lại đứng dưới thềm đoái xem trong sân, bọn tù nhân vừa rồi không còn một người. Vua bảo Sơn-Long rằng: "Phước đức tụng kinh của ông chẳng những là tự lợi, nhẫn đến làm cho bọn tù trong sân nhân nghe đề kinh Pháp-Hoa mà đều được thoát khổ, há chẳng hay lắm thay! Nay tha ngươi trở về".
Sơn-Long lạy từ. Ði được vài mươi bước, vua kêu trở lại rồi bảo quân hầu: "Nên dắt người này đi xem các ngục".
Quân hầu liền dắt Sơn-Long đi qua phía Ðông hơn trăm bước thấy một thành bằng sắt rất rộng lớn, trên có mái trùm kín". Quanh thành cỏ nhiều lỗ nhỏ, thấy các nam nữ từ dưới đất bay vào trong lỗ liền chẳng trở ra. Sơn-Long lấy làm lạ hỏi quân hầu . ---Ðáp: "Ðây là dại địa ngục, trong đó nhiều lớp phân cách theo tội riêng khác. Các người đó đều theo nghiệp dữ của mình đã tạo. Vào ngục chịu khổ" --- Sơn-Long nghe xong buồn sợ xưng "Nam-mô Phật" xin quân hầu dắt ra. Ðến cửa viện thấy một vạc lớn lửa mạnh nước sôi,, bên vạc có hai người ngồi ngủ. Sơn-Long hỏi đó. Hai người đáp: "Tôi bị tội báo vào vạc nước sôi này. Nhờ Hiền giả xưng Nam-mô Phật cho nên các người tội trong ngục đều được một ngày nghỉ mệt nên chúng tôi ngủ". Sơn-Long lại xưng "Nam-mô Phật".
Quân hầu đưa Sơn-Long về nhà, thấy hàng thân thuộc đương khóc, sắm-sửa những đồ tẩn liệm. Sơn-Long vào đến bên thấy thời liền sống lại.
Chuyện trên đây là chính ông Lý-Sơn-Long nói với chủ chùa Tổng-Trì. Chủ chùa thuật lại với tôi.
(Rút trong bộ "Minh-báo-ký")
"Nhiệm-mầu thay kinh Pháp-Hoa! Người tụng trì được công-đức, ngoài Phật ra không ai có thể nghĩ lường được. Ðọa địa-ngục, vì tội nghiệp nặng, lên tòa vừa khai tụng đề kinh mà cả mấy ngàn tù nhân dưới sân đều thoát khổ. Thoát khổ là bởi tội nghiệp tiêu. Tội nghiệp nặng mà tức khắc tiêu tan, nếu không phải công-đức rộng lớn quyết không thể được nghe đề kinh Pháp-Hoa mà công-đức còn lớn dường ấy, huống là người trì tụng đề kinh, huống là người trì tụng một phẩm, một quyển đến toàn bộ, nhẫn đến người giải nói, biên chép ấn tống. Ông Sơn-Long được thoát ngục, được vua trọng, được quân hầu kính, phải chăng là do uy-lực của kinh Pháp-Hoa. Ta đối với kinh Pháp-Hoa, thật nên chí thành đảnh đới, thụ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống, nếu ta có chí tự thoát khổ và thoát khổ cho người.
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
KINH
Diệu Pháp Liên Hoa
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dịch từ Hoa văn sang tiếng Việt
14. An-lạc hạnh phẩm |
15. Tùng địa dũng xuất phẩm |
16. Như Lai thọ-lượng phẩm |
17. Phân biệt công đức phẩm |
Quyển Thứ Năm
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'An Lạc Hạnh' Thứ Mười Bốn
1.--- Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù-Sư-Lợi Ðại Bồ-tát bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Các vị Bồ-tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ-nguyện lớn: ở nơi đời ác sau, hộ-trì đọc nói kinh Pháp-Hoa này".
Thế-Tôn! Các vị đại Bồ-tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?".
Phật bảo ngài Văn-Thù-Sư-Lợi: "nếu vị Bồ-tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an-trụ trong bốn pháp:
2.--- Một, an-trụ nơi "hành xứ" và nơi "thân-cận-xứ" của Bồ-tát, thời có thể vì chúng sinh mà diễn nói kinh này. Văn-Thù-Sư-Lợi! Thế nào gọi là chỗ "Hành-xứ" của đại Bồ-tát? Nếu vị đại Bồ-tát an trụ trong nhẫn-nhục hòa-dịu khéo thuận mà không vụt-chạc lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân-biệt mà quán tưởng như thực của các pháp (1) cũng chẳng vin theo, chẳng phân-biệt, đó gọi là chỗ "hành-xứ" của Bồ-tát.
Thế nào gọi là chỗ "thân-cận" của đại Bồ-tát? --- Vị đại Bồ-tát chẳng gần-gũi quốc-vương, vương-tử, đại-thần, quan-trưởng, chẳng gần-gũi các ngoại-đạo phạm-chí, ni-kiền-tử (2), v.v. . . và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại-đạo cùng với phái "lộ-già-da-đà" phái "nghịch-lộ-già-da-đà" (3), cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung-hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn na-la (4) v.v. . . bày các cuộc chơi biến-hiện.
Lại chẳng gần-gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn-bắn chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ-tát vì nói pháp không có lòng mong cầu.
Lại chẳng gần-gũi những Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng người cầu quả Thanh-Văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh-hành, hoặc ở trong giảng-đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ-nghi nói pháp không lòng mong cầu.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Lại vị đại Bồ-tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là Tướng có thể sinh tư-tưởng dục nhiễm mà vì nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái hóa, v.v. . . chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất-nam (5) để làm thân hậu.
Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhân-duyên cần riêng mình vào thời chuyên một lòng niệm Phật.
Nếu vì người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân-hậu, huống lại là việc khác.
Chẳng ưa nuôi đệ-tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thuyền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Ðó gọi là "chỗ thân-cận" ban đầu.
3.--- Lại nữa, vị đại Bồ-tát quán sát "Nhất-thiết, pháp không như thật tướng" chẳng điên-đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư-không, không có thật-tính, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thực không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân-duyên mà có, từ điên-đảo mà sinh cho nên nói, thường ưa quán-sát pháp-tướng như thế đó gọi là "chỗ thân-cận" thứ hai của vị Ðại Bồ-tát.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
4.--- Nếu có vị Bồ-tát
Ở trong đời ác sau
Lòng không hề sợ-sệt
Muốn nói kinh pháp này
Nên trụ vào "hành-xứ"
Và trụ "thân-cận-xứ".
Thường xa rời quốc-vương
Và con của quốc-vương
Quan đại-thần, quan lớn
Kẻ chơi việc hung-hiểm
Cùng bọn chiên-đà-la (6)
Hàng ngoại đạo phạm-chí
Cùng chẳng ưa gần-gũi
Hạng người Tăng-thượng-mạn
Hàng học giả tham chấp
Kinh, luật, luận tiểu-thừa
Những Tỷ-khiêu phá giới
Danh tự A-la-hán
Và những Tỷ-khiêu-ni
Ưa thích chơi giỡn cười
Các vị Ưu-bà-di
Tham mê năm món dục
Cầu hiện-tại diệt-độ
Ðều chớ có gần-gũi.
Nếu những hạng người đó
Dùng tâm tốt mà đến
Tại chỗ của Bồ-tát
Ðể vì nghe Phật-đạo
Bồ-tát thời nên dùng
Lòng không chút sợ-sệt
Chẳng có niệm mong cầu
Mà vì chúng nói pháp.
Những gái hóa, gái trinh
Và các kẻ bất-nam
Ðều chớ có gần gũi
Ðể cùng làm thân-hậu.
Cũng chớ nên gần-gũi
Kẻ đồ-tể cắt thái
Săn bắn và chài lưới
Vì lợi mà giết hại
Bán thịt để tự sống
Buôn bán sắc gái đẹp
Những người như thế đó
Ðều chớ có gần-gũi.
Các cuộc chơi giỡn dữ
Hung-hiễm đâm đánh nhau
Và nhưng dâm nữ thảy
Trọn chớ có gần-gũi.
Chớ nên riêng chỗ khuất
Vì người nữ nói pháp
Nếu lúc vì nói pháp
Chẳng được chơi giỡn cười
Khi vào xóm khất thực
Phải dắt một Tỷ-khiêu
Nếu không có Tỷ-khiêu
Phải một lòng niệm Phật
Ðây thời gọi tên là
"Hành-xứ" "thân-cận-xứ".
Dùng hai xứ trên đây
Có thể an-lạc nói.
Lại cũng chẳng vịn theo
Pháp thượng, trung và hạ
Hữu-vi hay vô-vi
Thực cùng pháp chẳng thực
Cũng chẳng có phân-biệt
Là nam là nữ thảy
Lại chẳng được các pháp
Chẳng biết cũng chẳng thấy
Ðây thời gọi tên là
"Hành-xứ" của Bồ-tát.
Tất cả các món pháp
Ðều không, chẳng chổ có
Không có chút thường-trụ
Vẫn cũng không khởi diệt
Ðây gọi là "thân-cận"
Chỗ người trí hằng nương.
Chớ đảo-điên phân-biệt
Các pháp có hoặc không
Là thực, chẳng phải thực
Là sinh chẳng phải sinh,
Ở an nơi vắng-vẻ
Sửa trao nhiếp tâm mình
An-trụ chẳng lai độn
Như thể núi Tu-Di
Quán-sát tất cả pháp
Thảy đều không thực có
Dường như khỏang hư-không
Không có chúc bền chắc.
Chẳng sinh cũng chẳng xuất
Chẳng động cũng chẳng thối
Thường-trụ một tướng-thể
Ðó gọi là "cận-xứ".
Nếu có vị Tỷ-khiêu
Sau khi ta diệt độ
Vào được "hành-xứ" đó
Thời lúc nói kinh này
Không có lòng e sợ
Vị Bồ-tát có lúc
Vào nơi nhà tịnh-thất
Lòng nghĩ nhớ chân chính
Theo đúng nghĩa quán pháp.
Từ trong thuyền-định dậy
Vì các bậc Quốc-vương
Vương-tử và quan, dân
Hàng Bà-la-môn thảy
Mà khai-hóa diễn-bày
Rộng nói kinh điển này
Tâm vị đó an-ổn
Không có chút khiếp-nhược.
Văn-Thù-Sư-Lợi này!
Ðó gọi là Bồ-tát
An-trụ trong sơ-pháp
Có thể ở đời sau
Diễn nói kinh Pháp-Hoa.
5.--- Lại Văn-Thù Sư-Lợi! Sau khi đức Như-Lai diệt-độ, ở trong đời mạt-pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an-lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; chẳng khinh mạn các pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh-văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen-ngợi điều tốt của người đó.
Lại cũng chẳng sinh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an-lạc như thế, nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp tiểu-thừa đáp, chỉ dùng pháp đại-thừa mà vì đó giải nói làm cho được bậc "Nhất-thiết chủng-trí."
Khi ấy, Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
6.--- Vị Bồ-Tát thường ưa
An-ổn nói kinh pháp
Ở nơi chổ thanh-tịnh
Mà sắp đặt sàng tòa
Dùng hương dầu xoa thân
Tắm gội các bụi dơ
Mặc y mới sạch-sẽ
Trong ngoài đều sạch thơm
Ngồi an nơi pháp-tòa
Theo chổ hỏi vì nói.
Nếu có vị Tỷ-khiêu
Cùng với Tỷ-khiêu-ni
Các hàng Ưu-bà-tắc
Và hàng Uu-bà-di
Quốc-vương và vương-tử,
Các quan cùng sĩ-dân
Dùng pháp nghĩa nhiệm-mầu
Vui-vẻ vì họ nói
Nếu có người gạn hỏi
Theo đúng nghĩa mà đáp
Nhân-duyên hoặc thí-dụ
Giải-bày phân-biệt nói
Dùng trí phương-tiện này
Ðều khiến kia phát tâm
Lần lần thêm đông nhiều
Vào ở trong Phật-đạo.
Trừ lòng lười biếng trễ
Cùng với tưởng giải-đãi
Xa rời các ưu-não
Tâm từ lành nói pháp
Ngày đêm thường tuyên nói
Giáo-pháp vô-thượng đạo
Dùng các việc nhân-duyên
Vô-lượng món thí-dụ
Mở bày dạy chúng-sinh
Ðều khiến chúng vui mừng
Y-phục cùng đồ nằm
Ðồ ăn uống thuốc thang
Mà ở nơi trong đó
Không có chỗ mong cầu
Chỉ chuyên một lòng nhớ
Nhân-duyên nói kinh pháp
Nguyện ta thành Phật-đạo
Khiến mọi người cũng vậy
Ðó là lợi lành lớn
Là an-vui cúng dàng
Sau khi ta diệt-độ
Nếu có vị Tỷ-khiêu
Có thể diễn nói được
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này
Lòng không chút ghen hờn
Không các não chướng-ngại
Cũng lại không ưu-sầu
Và cùng mắng nhiếc thảy
Lại cũng không sợ-sệt
Không dao gậy đánh đập
Cũng không xua-đuổi ra
Vì an-trụ nhẫn vậy
Người trí khéo tu-tập
Tâm mình được dường ấy
Thời hay trụ an-lạc
Như ta nói ở trên
Công-đức của người đó
Trong nghìn muôn ức kiếp
Tính kể hay thí-dụ
Nói chẳng thể hết được.
7.--- Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thụ-trì đọc-tụng kinh-điển này, chớ ôm lòng ghen-ghét dua-dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh-Văn, hoặc cầu Duyên-giác, hoặc cầu Bồ-tát đạo, đều không được làm não đó, khiến cho kia sinh lòng nghi-hối mà nói với người rằng: "Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được bậc nhất-thiết chủng-trí.
Vì sao? "Vì các người là kẻ buông-lung, biếng trễ đói với đạo". Lại cũng chẳng nên hí-luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả chúng-sinh, khởi tưởng đại-bi, đói với các đức Như-Lai sinh tưởng như cha lành, đối với các Bồ-tát, tưởng là bậc đại-sư, với các Ðại Bồ-tát ở mười-phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất-cả chúng-sinh đều bình- đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người ưa pháp cũng chẳng vì nói nhiều.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an-lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não loạn được bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại-chúng thường đến nghe thụ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng-dàng kinh quyển cung-kính tôn trọng ngợi khen.
Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
8.--- Nếu muốn nói kinh này
Phải bỏ lòng ghen hờn
Ngạo dua-dối tà-ngụy
Thường tu hạnh chất trực
Chẳng nên khinh miệt người
Cũng chẳng hí-luận pháp
Chẳng khiến kia nghi-hối
Rằng ngươi chẳng thành Phật,
Phật-tử đó nói pháp
Thường nhu-hòa hay nhẫn
Từ-bi với tất cả
Chúng-sinh lòng biếng trễ
Bồ-tát lớn mười-phương
Thương chúng nên hành đạo
Phải sinh lòng cung-kính
Ðó là Ðại-sư ta,
Với các Phật Thế-Tôn
Tưởng là cha vô-thượng,
Phá nơi lòng kiêu-mạn
Nói pháp không chướng-ngại
Pháp thứ ba như thế
Người trí phải giữ-gìn
Một lòng an-lạc hạnh
Vô-lượng chúng cung-kính.
9.--- Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Các vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt có vị nào trì kinh Pháp-Hoa này ở trong hàng người tại-gia, xuất-gia sinh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ-tát sinh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: những người như thế thời là mất lợi lớn. Ðức Như-Lai phương-tiện tùy-nghi nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta được vô-thượng chính-đẳng chíng-giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần-thông, sức trí-tuệ dẫn dắt đó khiến được trụ trong pháp này.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát đó ở sau lúc Như-Lai diệt-độ nếu thành-tựu được pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm-lỗi, thường được hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc-vương, vương-tử, đại-thần nhân-dân bà-la-môn, cư-sĩ thảy cúng-dàng cung-kính tôn-trọng ngợi-khen, hàng chư thiên ở trên hư-không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng thành ấp, rừng cây vắng-vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến người nghe đều được vui mừng.
Vì sao? Vì kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở quá-khứ, vị-lai, hiện-tại giữ-gìn vậy. Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này ở trong vô-lượng cõi nước, nhẫn đến danh-tự còn chẳng nghe được, hà-huống là được thấy thụ-trì đọc tụng.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Thí như vua Chuyển-luân-thánh-vương (10) sức lực mạnh-mẽ muốn dùng uy-thế hàng phục các nước, mà các vua nhỏ chẳng thuận mệnh-lệnh, bấy giờ Chuyển-luân-thánh-vương đem các đạo binh ra đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y-phục trang-nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân-bảo, vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã-nảo, san-hô, hổ-phách, voi, ngựa, xe, cộ, tôi-tớ, nhân-dân, chỉ viên minh-châu trong buối tóc chẳng đem cho đó.
Vì sao? Vì riêng trên đỉnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến-thuộc của vua ắt rất kinh lạ.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Như-Lai cũng như thế, dùng sức thuyền-định trí-tuệ được cõi nước pháp, giáo-hóa trong ba cõi mà ma-vương chẳng khứng thuận-phục, các tướng hiền thánh của Như-Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thuyền-định, giải-thoát, vô-lậu căn-lực. Và lại ban cho thành Niết-Bàn, bảo rằng được diệt-độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều được vui mừng, mà chẳng vì đó nói kinh Plháp-Hoa này.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Như vua Chuyển-Luân thấy các binh chúng những người có công lớn, đem viên minh-châu khó tin từ lâu ở trong buối tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó.
Ðức Như-Lai cũng lại như thế, làm vị đại Pháp-vương trong ba cõi, đem pháp mầu giáo-hóa tất cả chúng-sinh. Thấy quân hiền-thánh cùng ma ngũ-ấm, ma phiền-não (7), ma chết, đánh nhau có công lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy Như-Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp-hoa này có thể khiến chúng-sinh đến bậc "nhấ-thiết-trí" là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán-ghét, khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là lời nói bậc nhất của Như-Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu gìn viên minh-châu mà nay mới cho đó.
Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là tạng bí-mật của các đức Phật Như-Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ-gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
10.--- Thường tu-hành nhẫn-nhục
Thương xót tất cả chúng
Mới có thể diễn nói
Kinh của Phật khen ngợi.
Ðời mạt-thế về sau
Người thụ-trì kinh này
Với tại-gia, xuất-gia
Và chẳng phải Bồ-tát,
Nên sinh lòng từ-bi
Những người đó chẳng nghe
Chẳng tin kinh pháp này
Thời là mất lợi lớn
Khi ta chứng Phật-đạo
Dùng các sức phương-tiện
Vì nói kinh pháp này
Làm cho trụ trong đó.
Thí như vua Chuyển-Luân
Thánh-vương có sức mạnh
Binh tướng đánh có công
Thưởng ban những đồ vật
Voi, ngựa và xe-cộ
Ðồ trang-nghiêm nơi thân,
Và những ruộng cùng nhà
Xóm làng thành ấp thảy
Hoặc ban cho y-phục
Các món trân báu lạ
Tôi-tớ cùng của cải
Ðều vui mừng ban cho,
Nếu có người mạnh-mẽ
Hay làm được việc khó
Vua mới mở buối tóc
Lấy minh-châu cho đó.
Ðức Như-Lai cũng thế
Là vua trong các pháp
Nhẫn-nhục sức rất lớn
Tạng báu trí-tuệ sáng
Dùng lòng từ-bi lớn
Ðúng như pháp độ-đời
Thấy tất cả mọi người
Chịu các điều khổ-não
Muốn cầu được giải-thoát
Cùng các ma đánh nhau
Phật vì chúng-sinh đó
Nói các món kinh pháp
Dùng sức phương-tiện lớn
Nói các kinh điển đó,
Ðã biết loài chúng-sinh
Ðược sức mạnh kia rồi
Rốt sau mới vì chúng
Nói kinh Pháp-Hoa này
Như vua thánh mở tóc
Lấy minh-châu cho đó.
Kinh này là bậc tôn
Trên hết trong các kinh
Ta thường giữ-gìn luôn
Chẳng vọng vì mở bày
Nay chính đã phải lúc
Vì các ông mà nói.
Sau khi ta diệt-độ
Người mong cầu Phật-đạo
Muốn được trụ an-ổn
Diễn nói kinh pháp này
Phải nên thường gần-gũi
Bốn pháp trên như thế.
Người đọc tụng kinh này
Thường không bị ưu-não
Lại không có bệnh đau
Nhan-sắc được trắng sạch
Chẳng sinh nhà bần-cùng
Dòng ti-tiện xấu-xa
Chúng-sinh thường ưa thấy.
Như ham-mộ hiền-thánh
Các đồng-tử cõi trời
Dùng làm kẻ sai khiến
Dao gậy chẳng đến được
Ðộc dữ chẳng hại được
Nếu người muốn mắng-nhiếc
Miệng thời liền ngậm bít
Dạo đi không sợ-sệt
Dường như sư-tử vương
Trí-tuệ rất sáng-suốt
Như mặt trời chói sáng.
Nếu ở trong chiêm-bao
Chỉ thấy những việc tốt
Thấy các đức Như-Lai
Ngồi trên tòa sư-tử
Các hàng chúng tỷ-khiêu
Vây quanh nghe nói pháp.
Lại thấy các long-thần
Cùng A-tu-la thảy
Số như cát sông Hằng
Ðều cung-kính chắp tay
Tự ngó thấy thân mình
Mà vì chúng nói pháp.
Lại thấy các đức Phật
Thân tướng thuần sắc vàng
Phóng vô-lượng hào-quang
Soi khắp đến tất cả
Dùng giọng tiếng phạm-âm
Mà diễn nói các pháp
Phật vì hàng tứ-chúng
Nói kinh pháp vô-thượng
Thấy thân mình ở trong
Chắp tay khen-ngợi Phật
Nghe pháp lòng vui mừng
Mà vì cúng-dàng Phật
Ðược pháp Ðà-la-ni
Chứng bậc bất-thối-trí,
Phật biết tâm người đó
Ðã sâu vào Phật-đạo
Liền vì thụ-ký cho
Sẽ thành tối chính-giác.
Thiện-nam-tử ngươi này!
Sẽ ở đời vị-lai
Chứng được vô-lượng trí
Nên đạo lớn của Phật,
Cõi nước rất nghiêm tịnh
Rộng lớn không đâu bằng
Cũng có hàng tứ-chúng
Chắp tay nghe nói pháp.
Lại thấy thân của mình
Ở trong rừng núi vắng
Tu-tập các pháp lành
Chứng thực-tướng các pháp
Sâu vào trong thuyền-định
Thấy các Phật mười-phương
Các Phật thân sắc vàng
Trăm phước tướng trang-nghiêm
Nghe pháp vì người nói
Thường có mộng tốt đó.
Lại mộng làm quốc-vương
Bỏ cung-điện quyến-thuộc
Và ngũ-dục thượng diệu
Ði đến nơi đạo-tràng
Ở dưới gốc Bồ-Ðề
Mà ngồi tòa sư-tử
Cầu đạo quá bảy ngày
Ðược trí của các Phật
Thành đạo vô-thượng rồi
Dậy mà chuyển pháp-luân
Vì bốn-chúng nói pháp
Trải nghìn muôn ức kiếp
Nói pháp mầu vô-lậu
Ðộ vô-lượng chúng-sinh
Sau sẽ vào Niết-bàn
Như khói hết đèn tắt.
Nếu trong đời ác sau
Nói pháp bậc nhất này
Người đó được lợi lớn
Các công-đức như trên
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Tùng-Ðịa Dũng Xuất' Thứ Mười Lăm
1. --- Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ-tát ở cõi nước phương khác đông hơn số cát của tám sông Hằng, ở trong đại-chúng đứng dậy chắp tay làm lễ mà bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Nếu bằng lòng cho chúng con lúc sau khi Phật diệt-độ ở tại cõi Ta-Bà này siêng tu tinh tấn, giữ-gìn đọc-tụng, biên chép cúng-dàng kinh-điển này, thời chúng con sẽ ở trong cõi đây mà rộng nói đó".
Khi đó Phật bảo các chúng đại Bồ-tát: "Thiện nam-tử! Thôi đi chẳng cần các ông hộ-trì kinh này. Vì sao? Vì cõi Ta-bà của ta tự có chúng đại Bồ-tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng. Mỗi vị Bồ-tát có sáu muôn hằng-hà-sa quyến-thuộc, những người đó có thể sau khi ta diệt-độ hộ-trì đọc tụng rộng nói kinh này".
2. --- Lúc Phật nói lời đó, cõi Ta-Bà trong tam-thiên đại-thiên cõi nước đất đều rúng nứt, mà ở trong đó có vô-lượng nghìn muôn ức vị đại Bồ-tát đồng thời vọt ra. Các vị Bồ-tát đó thân đều sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt cùng vô-lượng ánh-sáng, trước đây đều ở dưới cõi Ta-Bà này, cõi đó trụ giữa hư-không. Các vị Bồ-tát đó nghe tiếng nói của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật nên từ dưới mà đến. Mỗi vị Bồ-tát đều là bậc đạo thủ trong đại chúng, đều đem theo sáu muôn hằng-hà-sa quyến-thuộc, huống là những vị đem năm muôn, bốn muôn, ba muôn, hai muôn, một muôn hằng-hà-sa quyến thuộc. Huống là nhẫn đến những vị đem một hằng-hà-sa, nửa hằng-hà-sa, một phần hằng-hà-sa, nhẫn đến một phần trong nghìn môn ức na-do-tha phần hằng-hà-sa quyến-thuộc. Huống là những vị đem nghìn môn ức na-do-tha quyến-thuộc, huống là đem muôn ức quyến-thuộc, huống là đem nghìn trăm muôn nhẫn đến một muôn, huống là đem một nghìn, một trăm nhẫn đến mười quyến thuộc, huống là năm, bốn, ba, hai, một người đệ-tử. Huống lại là những vị riêng một mình ưa hạnh viễn-ly, số đông vô lượng vô-biên dường ấy, tính đếm thí-dụ chẳng có thể biết được.
3.--- Các vị Bồ-tát đó từ dưới đất lên, đều đến nơi tháp đẹp bảy báu, chỗ của đức Ða-Bửu Như-Lai và Thích Ca Mâu-Ni Phật, đến nơi rồi hướng về hai vị Thế-Tôn mà đầu mặt lạy chân Phật, và đến chỗ các đức Phật ngồi trên tòa sư-tử dưới cội cây báu, cũng đều làm lễ. Ði quanh bên mặt ba vòng, chắp tay cung-kính dùng các cách ngợi-khen của Bồ-tát mà ngợi-khen Phật, rồi đứng qua một phía, ưa vui chiêm-ngưỡng hai đấng Thế-Tôn.
Từ lúc các vị Bồ-tát do từ dưới đất vọt lên dùng các cách ngợi-khen của Bồ-tát mà khen-ngợi Phật, thời gian đó trải qua năm mươi tiểu-kiếp.
Bãy giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật nín lặng ngồi yên, cùng hàng tứ-chúng cũng đều nín lặng, năm mươi tiểu kiếp, vì do sức thần của Phật, khiến hàng đại-chúng cho là như nửa ngày.
Bãy giờ, hàng tứ-chúng cũng nhờ sức thần của Phật, thấy các Bồ-tát đầy khắp vô-lượng nghìn muôn ức cõi nước hư-không.
4.--- Trong chúng Bồ-tát đó có bốn vị đạo sư: 1. Thượng-Hạnh. 2. Vô-biên-Hạnh. 3. Tịnh-Hạnh. 4. An-Lập-Hạnh. Bốn vị Bồ-tát này là bậc thượng-thủ Xướng-đạo sư trong chúng đó, ở trước đại-chúng, bốn vị đồng chắp tay nhìn đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật mà hỏi thăm rằng: "Thưa Thế-Tôn! Có được ít bịnh, ít não, an-vui luôn chăng, những người đáng độ thụ-giáo dễ chăng, chẳng làm cho đức Thế-Tôn sinh mỏi nhọc chăng?"
Khi đó, bốn vị Bồ-tát nói kệ rằng:
Thế-Tôn được an-vui
Ít bện cùng ít não,
Giáo hóa các chúng-sinh,
Ðược không mỏi nhọc ư?
Lại các hàng chúng-sinh
Thụ hóa có dễ chăng?
Chẳng làm cho Thế-Tôn
Sinh nhọc mệt đó ư?
5. --- Lúc bấy giờ đức Thế-Tôn ở trong đại-chúng Bồ-tát mà nói rằng: "Ðúng thế! Ðúng thế! Các thiện-nam tử! Ðức Như-Lai an vui, ít bịnh, ít não, các hàng chúng-sinh hóa-độ được dễ, không có nhọc mệt.
Vì sao? Vì các chúng-sinh đó, từ nhiều đời nhẫn lại, thường được ta dạy bảo, mà cũng từng ở nơi các Phật quá-khứ, cung-kính, tôn-trọng, trồng các cội lành. Các chúng-sinh đó vừa mới thấy thân ta, nghe ta nói pháp, liền đều tín nhận, vào được trong tuệ của Như-Lai, trừ người trước đã tu-tập học-hành tiểu-thừa; những người như thế ta cũng khiến được nghe kinh này, vào trong tuệ của Phật".
Lúc ấy các vị Bồ-tát nói kệ rằng:
Hay thay! Hay thay!
Ðức đại-hùng Thế-Tôn
Các hàng chúng-sinh thảy
Ðều hóa độ được dễ
Hay hỏi các đức Phật
Về trí-tuệ rất sâu
Nghe pháp rồi tin làm
Chúng con đều tùy-hỷ.
Khi đó, đức Thế-Tôn khen-ngợi các vị đại Bồ-tát thượng-thủ: "Hay thay! Hay thay! Thiện-nam-tử! Các ông có thể đối với đức Như-Lai mà phát lòng tùy-hỷ".
6. --- Bãy giờ ngài Di-Lặc Bồ-tát cùng tám nghìn hằng-hà-sa các chúng Bồ-tát đều nghĩ rằng: "Chúng ta từ xưa nhẫn lại chẳng thấy, chẳng nghe các chúng đại Bồ-tát như thế, từ dưới đất vọt lên, đứng trước đức Thế-Tôn, chắp tay cúng-dàng thăm hỏi Như-Lai".
Lúc đó, ngài Di-Lặc Bồ-tát biết tâm-niệm của tám nghìn hằng-hà-sa chúng Bồ-tát, cùng muốn tự giải quyết chỗ nghi của mình, bèn chắp tay hướng về phía Phật, nói kệ rằng:
Vô-lượng nghin muôn ức
Các Bồ-tát đại-chúng
Từ xưa chưa từng thấy
Nguyện đấng Lưỡng-Túc nói
Là từ chốn nào đến
Do nhân-duyên gì nhóm
Thân lớn đại thần-thông
Trí tuệ chẳng nghĩ bàn
Chí niệm kia bền vững
Có sức nhẫn-nhục lớn
Chúng-sinh chỗ ưa thấy
Là từ chốn nào đến?
Mỗi mỗi hàng Bồ-tát
Ðem theo các quyến-thuộc
Số đông không thể lường
Như số hằng-hà-sa
Hoặc có đại Bồ-tát
Ðem sáu muôn hằng-sa
Các đại-chúng như thế
Một lòng cầu Phật-đạo,
Những đại-sư đó thảy
Sáu muôn hằng-hà-sa
Ðều đến cúng-dàng Phật
Cùng hộ-trì kinh này.
Ðem năm muôn hằng-sa
Số này hơn số trên
Bốn muôn và ba muôn
Hai muôn đến một muôn
Một nghìn một trăm thảy
Nhẫn đến một hằng-sa
Nửa và ba bốn phần
Một phần trong ức muôn
Nghìn muôn na-do-tha
Muôn ức các đệ-tử
Nhẫn đến đem nửa ức
Số đông lại hơn trên.
Trăm muôn đến một muôn
Một nghìn và một trăm
Năm mươi cùng một mươi
Nhẫn đến ba, hai, một
Riêng mình không quyến-thuộc
Ưa thích ở riêng vắng
Ðều đi đến cõ Phật
Số đây càng hơn trên.
Các đại-chúng như thế
Nếu người phát thẻ đếm
Quá nơi kiếp hằng-sa
Còn chẳng thể biết hết.
Các vị uy-đức lớn
Chúng Bồ-tát tinh-tấn
Ai vì đó nói pháp
Giáo-hóa cho thành-tựu
Từ ai, đầu phát tâm?
Xưng-dương Phật-pháp nào?
Thụ-trì tu kinh gì?
Tu-tập Phật-đạo nào?
Các Bồ-tát như thế
Thần-thông sức trí lớn
Ðất bốn-phương rúng nứt
Ðều từ đất vọt lên
Thế-Tôn! Con từ xưa
Chưa từng thấy việc đó
Xin Phật nói danh-hiệu
Cõi nước của kia ở.
Con thường qua các nước
Chưa từng thấy chúng này
Con ở trong chúng đây
Bèn chẳng quen một người
Thoạt vậy từ đất lên
Mong nói nhân-duyên đó.
Nay trong đại-hội này
Vô-lượng trăm nghìn ức
Các chúng Bồ-tát đây
Ðều muốn biết việc này
Hằng Bồ-tát chúng kia
Gốc ngọn nhân duyên đó
Thế-Tôn đức vô-lượng
Cúi mong quyết lòng nghi.
7.--- Khi ấy các vị Phật của đức Thích-Ca Mâu-Ni phân thân, từ vô-lượng nghìn muôn ức cõi nước ở phương khác đến, ngồi xếp bằng trên tòa sư-tử, dưới các gốc cây báu nơi trong tám phương. Hàng thị-giả của Phật đó, đều thấy đại-chúng Bồ-tát ở bốn-phương cõi tam-thiên đại-thiên, từ đất vọt lên trụ trên hư-không, đều bạch với Phật mình rằng: "Thế-Tôn! Các đại-chúng vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ Bồ-tát đó, từ chốn nào mà đến?"
Lúc ấy các đức Phật đều bảo thị-giả: "Các Thiện-nam tử! Hãy chờ giây lát, hiện có vị đại Bồ-tát tên là Di-Lặc, là vị mà đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật thụ-ký kế đây sẽ làm Phật đã hỏi việc đó, đức Phật sẽ đáp, các ông tự đương, nhân đây mà được nghe."
8.--- Bãy giờ, đức Thích-Ca Mâu-ni Phật bảo ngài Di-Lặc Bồ-tát: "Hay thay! Hay thay! A-Dật-Ða (9), bèn có thể hỏi Phật việc lớn như thế, các ông phải chung một lòng, mặc giáp tinh-tấn, phát ý bền vững. Nay đức Như-Lai muốn hiển-phát tuyên-bày trí-tuệ của các đức Phật, sức thần-thông tự-tại của các đức Phật, sức sư-tử mạnh nhanh của các đức Phật, sức uy thế mạnh lớn của các đức Phật".
Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Phải một lòng tinh-tấn
Ta muốn nói việc này
Chớ nên có nghi-hối
Trí Phật chẳng nghĩ bàn
Ông nay gắng sức tin
Trụ nơi trong nhẫn thiện
Chỗ pháp xưa chưa nghe
Nay đều sẽ được nghe
Nay ta an-ủi ông
Chớ ôm lòng nghi sợ
Phật không lời chẳng thực
Trí-tuệ chẳng nghĩ bàn
Phật được pháp bậc nhất
Rất sâu khó phân biệt
Như thế nay sẽ nói
Các ông một lòng nghe.
9.--- Khi đức Thế-Tôn nói kệ đó, bảo ngài Di-Lặc Bồ-tát: "Nay ta ở trong đại-chúng này, tuyên bảo các ông. A-Dật-Ða! Các hàng đại Bồ-tát vô-lượng vô-số a-tăng-kỳ, từ dưới đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy đó, chính ta ở cõi Ta-bà lúc được vô-thượng chính-đẳng chính-giác rồi, giáo-hóa chỉ dẫn các Bồ-tát đó, điều-phục tâm kia khiến phát đạo-tâm.
Các vị Bồ-tát đó, ở phía dưới cõi Ta-bà, cõi đó trụ giữa hư-không, ở trong các kinh điển đọc tụng thông lẹ, suy ngẫm rõ hiểu, nghĩ tưởng chân-chính. A-Dật-Ða! Các Thiện-nam-tử đó chẳng thích ở trong chúng nhiều nói bàn, thường ưa ở chỗ vắng, siêng tu tinh-tấn chưa từng thôi dứt. Cũng chẳng nương tựa người trời mà ở, thường ham trí-tuệ sâu không có chướng-ngại, cũng thường ham nơi pháp của đức Phật, chuyên lòng tinh-tấn cầu tuệ vô-thượng.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
A-Dật ông nên biết!
Các Bồ-tát lớn này
Từ vô-số kiếp lại
Tu-tập trí-tuệ Phật
Ðều là ta hóa-độ
Khiến phát đại-đạo tâm
Chúng đó là con ta
Y chỉ thế-giới này
Thường tu-hạnh đầu-đà
Chỉ thích ở chỗ vắng
Bỏ đại-chúng ồn náo
Chẳng ưa nói bàn nhiều,
Các vị đó như thế
Học tập đạo-pháp ta
Ngày đêm thường tinh-tấn
Vì để cầu Phật-đạo
Ở phương dưới Ta-bà
Trụ giữa khoảng hư-không
Sức chí niệm bền-vững
Thường siêng cầu trí-tuệ
Nói các món pháp mầu
Tâm kia không sợ-sệt.
Ta ở thành Già-Da
Ngồi dưới gốc Bồ-Ðề
Thành bậc tối chính-giác
Chuyển pháp-luân vô-thượng
Rồi mới giáo-hóa đó
Khiến đều phát đạo-tâm
Nay đều trụ bất-thối
Ðều sẽ được thành Phật.
Nay ta nói lời thực
Các ông một lòng tin
Ta từ lâu xa lại
Giáo-hóa các chúng đó.
10.--- Lúc bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-tát cùng vô-số chúng Bồ-tát, lòng sinh nghi-hoặc, lấy làm lạ chưa từng có mà nghĩ rằng: "Thế nào đức Thế-Tôn ở trong thời-gian rất ngắn mà có thể giáo-hóa vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ các đại Bồ-tát đó, làm cho trụ nơi vô-thượng chính-đẳng chính-giác".
Liền bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Ðức Như-Lai lúc làm Thái-Tử rời khỏi cung dòng Thích, ngồi nơi đạo-tràng cách thành Già-Da chẳng bao xa, được thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm, đức Thế-Tôn thế nào ở trong thời-gian ngắn đó làm nên Phật sự lớn! Do thế-lực của Phật, do công-đức của Phật, giáo-hóa vô-lượng chúng Bồ-Tát lớn như thế sẽ thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác?
Thế-Tôn! Chúng đại Bồ-tát này giả sử có người trong nghìn muôn ức kiếp đếm không thể hết, chẳng được ngằn mé, chúng đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi vô-lượng vô-biên các đức Phật, trồng các gốc lành, thành-tựu đạo Bồ-tát thường tu phạm-hạnh.
Thế-Tôn! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có người sắc đẹp tóc đen, tuổi hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi, nói đó chỉ là con của ta. Người trăm tuổi nọ cũng chỉ gã tuổi nhỏ nói là cha ta, đẻ nuôi ta thảy, việc đó khó tin. Ðức Phật cũng như thế.
Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thực chưa bao lâu, mà các đại-chúng Bồ-tát đó, đã ở nơi vô-lượng nghìn muôn ức kiếp, vì Phật-đạo nên siêng tu tinh-tấn, khéo nhập xuất trụ nơi vô-lượng nghìn muôn ức tam-muội (11) được thần-thông lớn, tu hạnh thanh-tịnh đã lâu, khéo hay thứ đệ tập các pháp lành, giỏi nơi vấn-đáp, là báu quý trong loài người, tất cả thế-gian rất là ít có.
Ngày nay đức Thế-Tôn mới nói, lúc được Phật đạo, bắt đầu khiến kia phát tâm, giáo-hóa chỉ dạy dìu-dắt, làm cho kia hướng về vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Ðức Thế-Tôn thành Phật chưa bao lâu mà bèn có thể làm được việc công-đức lớn này.
Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ-nghi nói pháp, lời Phật nói ra chưa từng hư-vọng, chỗ Phật biết thảy đều thông suốt, như các Bồ-tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt-độ nếu nghe lời này boặc chẳng tin nhận, sinh nhân-duyên tội-nghiệp phá chính-pháp.
Kính thưa Thế-Tôn! Mong vì chúng giải nói trừ lòng nghi của chúng con, và các-thiện-nam-tử đời vị-lai nghe việc này rồi cũng chẳng sinh nghi.
Lúc đó ngài Di-Lặc muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
11.--- Phật xưa từ dòng Thích
Xuất-gia gần Già-da
Ngồi dưới cây Bồ-đề
Ðến nay còn chưa xa.
Các hàng Phật-tử này
Số đông không thể lường
Lâu đã tu Phật-Ðạo
Trụ nơi sức thần-thông
Khéo học đạo Bồ-tát
Chẳng nhiễm pháp thế-gian
Như hoa sen trong nước
Từ đất mà vọt ra
Ðều sinh lòng cung-kính
Ðứng nơi trước Thế-Tôn,
Việc đó khó nghĩ bàn
Thế nào mà tin được
Phật được đạo rất gần
Chỗ thành-tựu rất nhiều
Mong vì trừ lòng nghi
Như thực phân-biệt nói
Thí như người trẻ mạnh
Tuổi mới hai mươi lăm
Chỉ người trăm tuổi già
Tóc bạc và mặt nhăn:
Bọn này của ta sinh
Con cũng nói là cha
Cha trẻ mà con già
Mọi người đều chẳng tin.
Thế-Tôn cũng như thế
Ðược đạo đến nay gần
Các chúng Bồ-Tát này
Chí vững không hiếp nhược
Từ vô-lượng kiếp lại
Mà tu đạo Bồ-tát
Giỏi nơi gạn hỏi đáp
Tâm kia không sợ-sệt
Nhẫn-nhục lòng quyết-định
Ðoan-chính có uy-đức
Mười-phương Phật khen-ngợi
Khéo hay phân-biệt nói
Chẳng thích ở trong chúng
Thường ưa ở thuyền-định
Vì cầu Phật đạo vậy
Trụ hư-không phương dưới.
Chúng con từ Phật nghe
Nơi việc này không nghi
Nguyện Phật vì người sau
Diễn nói khiến rõ hiểu,
Nếu người ở kinh này
Sinh nghi lòng chẳng tin
Liền phải đọa đường dữ
Mong nay vì giải nói:
Vô-lượng Bồ-tát đó
Thế nào thời-gian ngắn
Giáo-hóa khiến phát tâm
Mà trụ bậc bất-thối?
Kinh Diệu Pháp Liên HoaPhẩm 'Như Lai Thọ Lượng' Thứ Mười Sáu
1.--- Lúc bấy giờ, Phật bảo các Bồ-tát và tất cả đại-chúng: "Các thiện-nam-tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai.
Lại bảo đại-chúng: "Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai".
Lại bảo các đại-chúng: "Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai".
Lúc đó đại-chúng Bồ-tát, ngài Di-Lặc làm đầu, chắp tay bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật". Ba phen bạch như thế rồi lại nói: "Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật".
2. --- Bãy giờ, đức Thế-Tôn biết các vị Bồ-tát ba phen thỉnh chẳng thôi, mà bảo đó rằng: "Các ông lóng nghe! Sức bí-mật thần-thông của Như-Lai, tất cả trong đời, trời, người và A-tu-la đều cho rằng nay đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành Già-da chẳng bao xa, ngồi nơi đạo-tràng được vô-thượng chính-đảng chính-giác.
"Nhưng, thiện-nam-tử! Thực ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô-lượng vô-biên trăm nghin muôn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam-thiên, đại-thiên, giả-sử có người nghiền làm vi-trần qua phương đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi-trần đó.
Các thiện-nam-tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế-giới đó có thể suy gẫm so tính biết được số đó chăng?"
Di-Lặc Bồ-tát, thảy đều bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Các thế-giới đó vô-lượng vô-biên, chẳng phải tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm-lực biết đến được. Tất cả Thanh-văn, Duyên-giác dùng trí vô-lậu, chẳng có thể suy-nghĩ biết được hạn số đó, chúng con trụ bậc bất-thối, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt.
Thế Tôn! Các thế-giới như thế, nhiều vô-lượng vô-biên".
3. --- Bãy giờ, Phật bảo các chúng Bồ-tát: "Các Thiện-nam-tử! Nay ta sẽ tuyên nói rành-rõ cho các ông. Các thế-giới đó, hoặc dính vi-trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi-trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta thường ở cõi Ta-bà này nói pháp giáo-hóa, cũng ở trong trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác dắt dẫn lợi-ích chúng-sinh.
Các Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sinh nào đến chỗ ta, ta dùng Phật nhãn quan-sát: tín, v.v. . . các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói văn-tự chẳng đồn, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng hại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn, lại dùng các trí phương-tiện nói pháp vi-diệu, có thể làm cho chúng-sinh phát lòng vui mừng.
Các thiện-nam-tử! Như-Lai thấy những chúng-sinh ưa nơi pháp tiểu-thừa, đức mỏng tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất-gia được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, nhưng thực, từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương-tiện giáo-hóa chúng-sinh, khiến vào Phật-đạo, nên nói như thế.
4. --- Các thiện-nam-tử! Kinh-điển của đức Như-Lai nói ra, đều vì độ thoát chúng-sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người, các lời nói đều thực chẳng dối.
Vì sao? Vì đức Như-Lai đúng như thực thấy biết tướng của tam-giới, không có sinh-tử,, hoặc thối, hoặc xuất, cũng không ở đời và diệt-độ, chẳng phải thực, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc như thế Như-Lai thấy rõ, không có sai lầm.
Bởi các chúng-sinh có các món tính, các món dục, các món hạnh, các món nhớ tưởng phân-biệt, muốn làm cho sinh các căn lành, nên dùng bao nhiêu nhân-duyên, thí-dụ ngôn-từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật-sự, chưa từng tạm bỏ. Như thế, từ ta thành Phật nhẫn lại, thực là lâu xa, thọ mệnh vô-lượng a-tăng-kỳ kiếp, thường còn chẳng mất.
Các thiện-nam-tử! Ta xưa tu-hành đạo Bồ-tát, cảm thành thọ-mệnh, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thực diệt-độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt-độ. Ðức Như-Lai dùng phương-tiện đó, giáo-hóa chúng-sinh.
Vì sao? --- Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời người đức mỏng, chẳng trồng gốc lành, nghèo cùng hèn-hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lướI nhớ tưởng vọng-kiến. Nếu thấy đức Như-Lai thường còn chẳng mất, bèn sinh lòng buông-lung nhàm trễ, chẳng có thể sinh ra ý tưởng khó gặp-gỡ cùng lòng cung-kính, cho nên đức Như-Lai dùng phương-tiện nói rằng: "Tỷ-khiêu phải biết, các đức Phật ra đời, khó có thể gặp gỡ".
Vì sao? --- Những người đức mỏng, trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp, hoặc có người thấy Phật hoặc người chẳng thấy, do việc này, nên ta nói rằng: "Tỷ-khiêu! Ðức Như-Lai khó có thể được thấy".
Các chúng-sinh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sinh ý-tưởng khó gặp-gỡ, ôm lòng luyến-mộ khát-ngưỡng nơi Phật, bèn trồng gốc lành, cho nên đức Như-Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt-độ.
Lại thiện-nam-tử! Phương-pháp của các đức Phật Như-Lai đều như thế, vì độ chúng-sinh đều thực chẳng dối.
5. --- Ví như vị lương-y, trí-tuệ sáng-suốt, khéo luyện phương thuốc trị các bệnh. Người đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc phát muộn-loạn lăn-lộn trên đất.
Bãy giờ, người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc độc, hoặc làm mất bản tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về đều rất vui mừng, quỳ lạy hỏi thăm: "An-lành về an-ổn. Chúng con ngu-si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ-mệnh cho chúng con."
Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương, (12) tìm cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy-đủ. Ðâm nghiền hòa-hợp, đưa bảo các con uống mà nói rằng: "Thuốc đại lương-dược này mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ, các con nên uống, mau trừ khổ-não, không còn lại có các bệnh-hoạn".
Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc lương dược ấy, sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bệnh trừ hết, được lành mạnh. Ngoài ra, những người thất tâm, thấy cha về dầu cũng vui mừng hỏi thăm, cầu xin trị bệnh, song trao thuốc cho mà không chịu uống.
Vì sao? Vì hơi độc đã thâm-nhập làm mất bản tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không ngon. Người cha nghĩ rằng: "Người con này đáng thương, bị trúng độc, tâm đều điên-đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như thế, mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương-tiện, khiến chúng uống thuốc này".
Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: "Các con phải biết, ta nay già suy, giờ chết đã đến, thuốc "lương-dược" tốt này nay để ở đây, các con nên lấy uống, chớ lo không lành". Bảo thế, rồi lạì đến nước khác, sai sứ về nói: "Cha các ngươi đã chết".
Bãy giờ, các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng: "Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta,có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta xa chết ở nước khác". Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chổ cậy nhờ, lòng thường bi-cảm, tâm bèn tỉnh ngộ biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, bệnh độc đều lành. Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.
Các Thiện-nam-tử! Ý ông nghĩ sao? Vả có người nào có thể nói ông lương y đó mắc tội hư-dối chăng?
--- Thưa Thế-Tôn, không thể được!
Phật nói: "Ta cũng như thế, từ khi thành Phật đến nay đã vô-lượng vô-biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sinh dùng sức phương-tiện nói: "sẽ diệt độ", cũng không ai có thể đúng như pháp mà nói ta có lỗi hư dối.
Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
6. --- Từ ta thành Phật lại
Trải qua các kiếp số
Vô-lượng trăm nghìn muôn
A-tăng-kỳ ức năm
Thường nói pháp giáo-hóa
Vô-số ức chúng-sinh
Khiến vào nơi Phật-đạo
Ðến nay vô-lượng kiếp
Vì độ chúng-sinh vậy
Phương-tiện hiện Niết-bàn
Mà thực chẳng diệt-độ
Thường trụ đây nói pháp
Ta thường trụ ở đây
Dùng các sức thần-thông
Khiến chúng-sinh điên-đảo
Dầu gần mà chẳng thấy
Chúng thấy ta diệt-độ
Rộng cúng-dàng Xá-lợi
Thảy đều hoài luyến mộ
Mà sinh lòng khát-ngưỡng,
Chúng-sinh đã tín-phục
Ngay thực ý diệu-hòa
Một lòng muốn thấy Phật
Chẳng tự tiếc thân mệnh
Giờ ta cùng chúng tăng
Ðều ra khỏi Linh-Thứu
Ta nói với chúng-sinh
Thường ở đây chẳng diệt
Vì dùng sức phương-tiện
Hiện có diệt chẳng diệt.
Nước khác có chúng-sinh
Lòng cung-kính tín-nhạo
Ta ở lại trong đó
Vì nói pháp vô-thượng
Ông chẳng nghe việc đó
Chỉ nói ta diệt-độ.
Ta thấy các chúng-sinh
Chìm ở trong khổ-não
Nên chẳng vì hiện thân
Cho kia sinh khát-ngưỡng
Nhân tâm kia luyến-mộ
Hiện ra vì nói pháp
Sức thần-thông như thế
Ở trong vô-số kiếp
Thường tại núi Linh-Thứu
Và các trụ xứ khác.
Chúng-sinh thấy tận kiếp
Lúc lửa lớn thiêu đốt
Cõi ta đây an-ổn
Trời người thường đông vầy
Vườn rừng các nhà gác
Những món báu trang-nghiêm
Cây báu nhiều hoa trái
Chỗ chúng-sinh vui chơi
Các trời đánh trống trời
Thường trổi những kỹ nhạc
Rưới hoa mạn-đà-la
Cúng Phật và đại-chúng.
Tịnh-độ ta chẳng hư
Mà chúng thấy cháy rã
Lo-sợ các khổ-não
Như thế đều đầy-dẫy
Các chúng-sinh tội đó
Vì nhân-duyên nghiệp dữ
Quá a-tăng-kỳ kiếp
Chẳng nghe tên Tam-bảo.
Người nhu-hòa ngay thực
Có tu các công-đức
Thời đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp.
Hoặc lúc vì chúng này
Nói Phật thọ vô-lượng,
Người lâu thấy Phật
Vì nói Phật khó gặp.
Trí-lực ta như thế
Tuệ-Quang soi vô-lượng
Thọ-mệnh vô-số kiếp
Tu hành lâu cảm được.
Các ông người có trí
Chớ ở đây sinh nghi
Nên dứt khiến hết hẳn
Lời Phật thật không dối.
Như lương-y chước khéo
Vì để trị cuồng-tử
Thực còn mà nói chết
Không thể nói hư-dối.
Ta là cha trong đời
Cứu các người đau-khổ
Vì phàm-phu điên-đảo
Thực còn mà nói diệt,
Vì cớ thường thấy ta
Mà sinh lòng kiêu-tứ
Buông-lung ham ngũ-dục
Sa vào trong đường dữ.
Ta thường biết chúng-sinh
Hành-đạo chẳng hành-đạo
Tùy chổ đáng độ được
Vì nói các pháp-môn
Hằng tự nghĩ thế này:
Lãy gì cho chúng-sinh
Ðược vào tuệ vô-thượng
Mau thành-tựu thân Phật.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Phân Biệt Công Ðức' Thứ Mười Bảy
1. --- Lúc bấy giờ, trong đại-hội nghe Phật nói thọ-mệnh, kiếp số dài lâu như thế, vô-lượng, vô-biên, vô-số chúng-sinh được lợi-ích lớn.
Khi đó, đức Thế-Tôn bảo ngài Di-Lặc đại Bồ-tát: "A-Dật-Ða! Lúc ta nói đức Như-Lai thọ-mệnh dài lâu như thế, có sáu trăm tám muôn ức na-do tha hằng-hà-sa chúng-sinh được "Vô-sinh pháp-nhẫn".(13)
Lại có đại Bồ-tát nghìn lần gấp bộI được môn "văn-trì-đà-la-ni"(14). Lại có một thế-giới vi-trần số đại Bồ-tát được "Nhạo-thuyết vô-ngại biện-tài"(15). Lại có một thế-giới vi-trần số đại Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức vô-lượng môn "Triền đà-la-ni". Lại có tam-thiên dại-thiên thế-giới vi-trần số đại Bồ-tát chuyển được "Pháp-luân bất-thối".
Lại có nhị-thiên trung-quốc-độ vi-trần số đại Bồ-tát chuyển được "Pháp-luân thanh-tịnh". Lại có Thiểu-thiên quốc-độ vi-trần số đại Bồ-tát tám đời sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Lại có bốn Tứ-thiên-hạ (16) vi-trần số đại Bồ-tát bốn đời sẽ được chính-đẳng chính-giác. Lại có ba tứ-thiên-hạ vi-trần số đại Bồ-tát ba đời sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Lại có hai tứ-thiên-hạ vi-trần số đại Bồ-tát hai đời sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Lại có một tứ-thiên-hạ vi-trần số đại Bồ-tát một đời sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Lại có tám thế-giới vi-trần số chúng-sinh đều phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác."
2. --- Lúc đức Phật nói các vị đại Bồ-tát đó được pháp-lợi, (17) trên giữa hư-không, rưới hoa Mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la để rải vô-lượng trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư-tử dưới gốc cây báu, và rải đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật cùng đức Ða-Bửu Phật ngồi trên tòa sư-tử trong tháp bảy báu: cùng rải tất cả các đại Bồ-tát và bốn-bộ-chúng.
Lại rưới bột gỗ chiên-đàn, trầm-thủy hương v.v. . . trong hư-không, trốn trời tự kêu tiếng hay sâu-xa.
Lại rải nghìn thứ thiên-y, thòng các chuỗi ngọc chân-châu, chuỗi châu ma-ni, chuỗi châu như-ý khắp cả chín phương, các lò hương báu đốt hương vô-giá, tự-nhiên khắp đến cúng dàng đại-chúng.
Trên mỗi đức Phật có các vị Bồ-tát nắm cầm phan-lọng, thứ-đệ mà lên đến trời Phạm-thiên. Các vị Bồ-tát đó dùng tiếng tăm hay, ca vô-lượng bài tụng ngợi-khen các đức Phật.
Khi ấy ngài Di-Lặc Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng về phía Phật mà nói kệ rằng:
3. --- Phật nói pháp ít có
Từ xưa chưa từng nghe
Thế-Tôn có sức lớn
Thọ-mệnh chẳng thể lường.
Vô-số các Phật-tử
Nghe Thế-Tôn phân-biệt
Nói được pháp-lợi đó
Vui mừng đầy khắp thân
Hoặc trụ bậc bất-thối
Hoặc được đà-la-ni
Hoặc vô-ngại nhạo-thuyết
Muôn ức triên tổng-trì.
Hoặc có cõi đại-thiên
Số vi-trần Bồ-tát
Mỗi vị đều nói được
Pháp-luân bất-thối-chuyển.
Hoặc có trung-thiên-giới
Số vi-trần Bồ-tát
Mỗi vị đều có thể
Chuyển-pháp-luân thanh-tịnh.
Lại có tiểu-thiên-giới
Số vi-trần Bồ-tát
Còn dư lại tám đời
Sẽ được thành Phật-đạo.
Lại có bốn, ba, hai
Tứ-thiên-hạ như thế
Số vi-trần Bồ-tát
Theo số đời thành Phật.
Hoặc một tứ-thiên-hạ
Số vi-trần Bồ-tát
Còn dư có một đời
Sẽ thành nhất-thiết-trí.
Hàng chúng-sinh như thế
Nghe Phật thọ dài lâu
Ðược vô-lượng quả-báo
Vô-lậu rất thanh-tịnh.
Lại có tám thế-giới
Số vi-trần chúng-sinh
Nghe Phật nói thọ-mệnh
Ðều phát tâm vô-thượng
4. --- Thế-Tôn nói vô-lượng
Bất-khả tư-nghì pháp
Nhiều được có lợi-ích
Như hư-không vô-biên
Rưới hoa thiên mạn-đà
Hoa ma-ha mạn-đà
Thích, Phạm như hằng-sa
Vô-số cõi Phật đến
Rưới chiên-đàn trầm thủy
Lăng-xăng loạn sa xuống
Như chiêm bay liệng xuống
Rải cúng các đức Phật.
Trống trời trong hư-không
Tự-nhiên vang tiếng mầu,
Áo trời nghìn muôn thứ
Xoay-chuyển mà rơi xuống
Các lò hương đẹp báu
Ðốt hương quý vô-giá
Tự-nhiên đều cùng khắp
Cúng dàng các Thế-Tôn.
Chúng đại Bồ-tát kia
Cầm phan-lọng bảy báu
Cao đẹp muôn ức thứ
Thứ lớp đến Phạm-Thiên.
Trước mỗi mỗi đức Phật
Tràng báu treo phan tốt
Cũng dùng nghìn muôn kệ
Ca vịnh các Như-Lai
Như thế các món việc
Từ xưa chưa từng có
Nghe Phật thọ vô-lượng
Tất cả đều vui-nừng
Phật tiếng đồn mười-phương
Rộng lợi ích chúng-sinh
Tất cả đủ căn-lành
Ðể trợ tâm vô-thượng.
5. --- Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Di-Lặc đại Bồ-tát rằng: "A-Dật-Ða! Có chúng-sinh nào nghe đức Phật thọ mệnh dài lâu như thế, nhẫn đến có thể sinh một niệm tín giải, được công-đức không hạn lượng được. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nử-nhơn, vì đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác, trong tám muôn ức na-do-tha kiếp tu năm pháp ba-la-mật: bố-thí ba-la-mật, trì-giới ba-la-mật, nhẫn-nhục ba-la-mật, tinh-tấn ba-la-mật, thuyền-định ba-la-mật, trừ trí-tuệ ba-la-mật, đem công-đức này sánh vớI công-đức tín-giải trước, trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng kịp một, nhẫn đến tính đếm, thí-dụ, không thể biết được. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn có công-đức như thế mà thối-thất nơi vô-thượng chính-đẳng chính-giác, thời quyết không có lẽ đó.
Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
6. --- Nếu người cầu tuệ Phật.
Trong tám nươi muôn ức
Na-do-tha kiếp số
Tu năm ba-la-mật
Ở trong các kiếp đó
Bố-thí cúng dàng Phật
Và Duyên-giác đệ-tử
Cùng các chúng Bồ-tát,
Ðồ uống ăn báu lạ
Thượng phục và đồ nằm
Chiên-đàn dựng tinh-xá
Dùng vườn rừng trang-nghiêm
Bố-thí như thế thảy
Các món đều vi-diệu
Hết các kiếp số này
Ðể hồi-hướng Phật đạo,
Nếu lại gìn cấm giớI
Thanh-tịnh không thiếu sót
Cầu nơi đạo vô-thượng
Ðược các Phật khen ngợI
Nếu lại tu nhẫn-nhục
Trụ nơi chỗ điều-nhu
Dầu các ác đến hại
Tâm đó chẳng khuynh-động
Các người có được pháp
Cưu lòng tăng-thượng-mạn
Bị bọn này khinh não
Như thế đều nhẫn được
Hoặc lại siêng tinh-tấn
Chí-niệm thường bền vững
Trong vô-lượng ức kiếp
Một lòng chẳng trể thôi.
Lại trong vô-số kiếp
Trụ nơi chỗ vắng-vẻ
Hoặc ngồi hoặc kinh-hành
Trừ ngủ thường nhiếp-tâm
Do các nhân-duyên đó
Hay sinh các thuyền định,
Tám mươi ức muôn kiếp
An-trụ tâm chẳng loạn
Ðem phước thuyền-định đó
Nguyện cầu đạo vô-thượng
Ta được nhất-thiết-trí
Tận ngằn các thuyền định
Người đó trong trăm nghìn
Muôn ức kiếp số lâu
Tu các công-đức này
Như trên đã nói rõ.
Có thiện-nam, tín-nữ.
Nghe ta nói thọ-mệnh
Nhẫn đến một niềm tin
Phước đâ hơn phước kia
Nếu người trọn không có
Tất-cả các nghi-hối
Thân tâm giây lát tin
Phước đó nhiều như thế.
Nếu có các Bồ-tát
Vô-lượng kiếp hành đạo
Nghe ta nói thọ-mệnh
Ðây thời tin nhận được
Các hàng người như thế
Ðỉnh thụ kinh-điển này
Nguyện ta thuở vị-lai
Sống lâu độ chúng-sinh
Như Thế-Tôn ngày nay
Vua trong các họ Thích
Ðạo-tràng rền tiếng lớn
Nói pháp không sợ-sệt
Chúng ta đời vị-lai
Ðược mọi người tôn-kính
Lúc ngồi nơi đạo-tràng
Nói thọ-mệnh cũng thế,
Nếu có người thâm-tâm
Trong-sạch mà ngay thực
Học rộng hay tổng-trì
Tùy nghĩa giải lời Phật
Những người như thế đó
Nơi đây không có nghi.
7. --- Lại A-Dật-Ða! Nếu có người nghe nói đức Phật thọ-mệnh dài lâu, hiểu ý-thú của lời nói đó, người này được công-đức không có hạn-lượng, có thể sinh-tuệ vô-thượng của Như-Lai. Huống là người rộng nghe kinh này, hoặc bảo người nghe, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc đem hoa hương, chuỗi ngọc, tràng-phan, lọng nhiễu, dầu thơm, đèn nến cúng-dàng quyển kinh, công-đức của người này vô-lượng vô-biên có thể sinh nhất-thiết chủng-trí.
A-Dật-Ða! Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nghe ta nói thọ-mệnh dài lâu sinh lòng tin hiểu chắc, thời chính là thấy đức Phật thường ở núi Kỳ-Xà-Quật, cùng chúng Bồ-tát lớn và hàng Thanh-văn vây quanh nói pháp.
Lại thấy cõi Ta-bà này đất bằng lưu-ly ngang liền bằng phẳng, dây vàng Diêm-phù-đàn để ngăn tám nẻo đường, cây báu bày hàng, các đài lầu nhà thảy đều các thú báu hợp thành, chúng Bồ-tát đều ở trong đó. Nếu có người tưởng quán được như thế, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu chắc.
Và lại sau đức Như-Lai diệt-độ, nếu có người nghe kinh này mà không chê bai, sinh lòng tùy-hỷ phải biết đó đã là tướng tin hiểu sâu chắc, huống là người đọc, tụng, thụ-trì kinh này, người này thời là kẻ đầu đội đức Như-Lai.
A-Dật-Ða! Thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhân đó chẳng cần lại vì ta mà dựng chùa tháp, và cất Tăng-phường dùng bốn sự cúng-dàng để cúng-dàng chúng Tăng. Vì sao? Vì thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân đó thụ-trì, đọc tụng kinh điển này thời là đã dựng tháp tạo lập Tăng-phường cúng-dàng chúng tăng, thời là đem xá-lợi của Phật dựng tháp bảy báu cao rộng nhỏ lần lên đến trời Phạm-Thiên, treo các phan lọng và các linh báu, hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương-xoa, hương đốt, các trống, kỹ nhạc, ống tiêu, ống địch, không-hầu các thứ múa chơi, dùng tiếng giọng tốt ca ngâm khen-ngợi, thời là ở trong vô-lượng nghìn muôn ức kiếp đã làm việc cúng-dàng đó rồi.
A-Dật-Ða! Nếu sau khi ta diệt-độ, nghe kinh điển này, có người hay thụ-trì, hoặc tự chép hoặc bảo người chép, đó là dựng lập Tăng-phường, dùng gỗ chiên-đàn đỏ làm các cung-điện nhà cửa ba mươi hai sở, cao bằng tám cây đa-la, cao rộng nghiêm đẹp, trăm nghìn Tỷ-khiêu ở nơi trong đó. Vườn, rừng, ao tắm, chỗ kinh-hành, hang ngồi thuyền, y-phục đồ uống ăn, giường nệm, thuốc thang tất cả đồ vui dẫy-đầy trong đó, Tăng-phường có ngần ấy trăm nghìn muôn ức nhà gác như thế, số đó nhiều vô-lượng, dùng để hiện tiền cúng-dàng nơi ta và Tỷ-khiêu tăng.
Cho nên ta nói: Sau khi Như-Lai diệt-độ nếu có người thụ-trì, đọc tụng, vì người khác nói. Hoặc mình chép hoặc bảo người chép, cúng-dàng kinh quyển thời chẳng cần lại dựng chùa tháp và tạo lập Tăng-phường cúng-dàng chúng Tăng. Huống lại có người hay thụ-trì kinh này mà gồm tu-hành bố-thí, trì-giới, nhẫn-nhục tinh-tấn, nhất-tâm, trí-tuệ, công-đức của người đây rất thù-thắng vô-lượng vô-biên.
Thí như hư-không, đông, tây, nam, bắc, bốn phía trên, dưới vô-lượng vô-biên, công-đức của người đó cũng lại như thế vô-lượng vô-biên mau đến bậc nhất-thiết chủng-trí. Nếu có người đọc tụng thụ-trì kinh này vì người khác nói, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, lại có thể dựng tháp cùng tạo lập Tăng-phường cúng-dàng khen-ngợi chúng Thanh-văn-tăng, cũng dùng trăm nghìn muôn pháp ngợi-khen mà ngợi-khen công-đức của Bồ-tát.
Lại vì người khác dùng các món nhân-duyên theo nghĩa giải nói kinh Pháp-Hoa này, lại có thể thanh-tịnh trì-giới cùng người nhu-hòa mà chung cùng ở, nhẫn-nhục không sân, chí niệm bền vững, thường quý ngồi thuyền được các món định sâu, tinh-tấn mạnh-mẽ nhiếp các pháp lành, căn lành trí-sáng, giỏi gạn hỏi đáp.
A-Dật-Ða! Nếu sau khi ta diệt-độ các thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân thụ-trì, đọc tụng kinh điển này lại có các công-đức lành như thế, phải biết người đó đã đến đạo-tràng gần vô-thượng chính-đẳng chính-giác ngồi dưới gốc đạo-thụ.
A-Dật-Ða! Chỗ của thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhân đó hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, trong đó bèn nên xây tháp, tất cả trời người đều phải cúng-dàng như tháp của Phật.
Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
8. --- Sau khi ta diệt độ
Hay phụng trì kinh này
Người đó phúc vô-lượng
Như trên đã nói rõ.
Ðó thời là đầy-đủ
Tất cả các cúng-dàng
Dùng xá-lợi xây tháp
Bảy báu để trang-nghiêm.
Chùa-chiền rất cao rộng
Nhỏ lần đến Phạm-thiên
Linh báu nghìn muôn ức
Gió động vang tiếng mầu,
Lại trong vô-lượng kiếp
Mà cúng-dàng tháp đó
Hoa hương, các chuỗi ngọc
Thiên-y, các kỹ-nhạc
Thắp đèn dầu nến thơm
Quanh khắp thường soi sáng,
Lúc đời ác mạt-pháp
Người hay trì kinh này
Thời là đã đầy đủ
Các cúng-dàng như trên.
Nếu hay trì kinh này
Thời như Phật hiện-tại
Dùng ngưu-đầu chiên-đàn
Dựng Tăng-phường cúng-dàng
Nhà ba mươi hai sở
Cao tám cây Ða-la
Ðồ ngon y-phục tốt
Giường nằm đều đầy đủ.
Trăm nghìn chúng nương ở
Vườn rừng các ao tắm
Chỗ kinh-hành, ngồi thuyền
Các món đều nghiêm tốt.
Nếu có lòng tín hiểu
Thụ-trì, đọc tụng biên
Nếu lại bảo người biên
Và cúng-dàng kinh quyển.
Rải hoa hương, hương bột
Dùng tu-mạn, chiêm-bặc
A-đề, mục-đa-dà
Ướp dầu thường đốt đó
Người cúng-dàng như thế
Ðược công-đức vô-lượng
Như hư-không vô-biên
Phước đó cũng như thế.
Huống lại trì kinh này
Gồm bố-thí trì-giới,
Nhẫn-nhục ưa thuyền-định
Chẳng sân, chẳng ác khẩu
Cung-kính nơi tháp miếu
Khiêm-hạ các Tỷ-khiêu
Xa lìa tâm tự cao
Thường nghĩ suy trí-tuệ,
Có gạn hỏi chẳng sân
Tùy-thuận vì giải nói
Nếu làm được hạnh đó
Công-đức chẳng lường được.
Nếu thấy Pháp-sư này
Nên công-đức như thế
Phải dùng hoa trời rải
Áo trời trùm thân kia
Ðầu mặt tiếp chân lạy
Sinh lòng tưởng như Phật,
Lại nên nghĩ thế này:
Chẳng lâu đến đạo-thụ
Ðược vô-lậu vô-vi
Rộng lợi các người trời
Chỗ trụ chỉ của kia
Kinh-hành hoặc ngồi nằm
Nhẫn đến nói một kệ
Trong đây nên xây tháp
Trang-nghiêm cho tốt đẹp
Các món đem cúng-dàng,
Phật-tử ở chỗ này
Thời là Phật thụ dụng
Thường ở nơi trong đó
Kinh-hành và ngồi nằm.
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
KINH
Diệu Pháp Liên Hoa
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dịch từ Hoa văn sang tiếng Việt
18. Tùy-hỷ công đức phẩm |
19. Pháp-sư công-đức phẩm |
20. Thường-Bất-Khinh Bồ-Tát phẩm |
21. Như Lai thần-lực phẩm |
22. Chúc-lụy phẩm |
23. Dược-Vương Bồ-Tát bổn-sự phẩm |
Quyển Thứ Sáu
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Tùy-Hỉ Công Ðức' Thứ Mười Tám
1. Lúc bấy giờ, Ngài Di Lặc Ðại Bồ tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kink Pháp hoa này mà tuỳ hỉ đó, đặng bao nhiêu phước đức ? Liền nói kệ rằng:
Sau khi Phật diệt độ
Có người nghe kinh nầy
Nếu hay tùy hỉ đó (1)
Lại đặng bao nhiêu phước ?
2. Khi đó Phật bảo ngài Di Lặc Ðại Bồ Tát rằng: A Dật Ða! Sau khi Như Lai diệt độ nếu có Tỳ Kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di và người trí khác, hoặc lớn, hoặc nhỏ nghe kinh này mà tùy hỉ rồI, từ trong pháp hội ra đến chỗ khác, hoặc tại tăng phường, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc thành ấp, đường xá, xóm làng, ruộng rẫy, đem pháp đúng như chỗ đã nghe mà vì cha mẹ tôn thân, thiện hữu tri thức tuỳ sức diễn nói. Các người đó nghe rồi tùy hỷ lại di chuyển dạy người khác nghe rôì cũng tuỳ hỹ chuyễn dạy, xoay vần như thế đến người thứ năm mươi
3. A Dật Ða! Công đức tùy hỷ của thiện nam tử, thiện nữ nhơn thứ năm mươi đó, ta nay nói ông phải lóng nghe.
Nêú có trăm muôn ức vô số thế giới có sáu đường chúng sanh trong bốn loài sanh; noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hoá sanh, hoặc có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng phải không tưởng, không chưn, hai chưn, bốn chưn, nhiều chưn, tất cả trong số chúng sanh như thế, có người cầu phước tuỳ theo đồ ưa thích của chúng muốn diều cung cấp cho đó. Mỗi mỗi chúng sanh cho các trân bảo tốt: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách đầy cả Diêm phù đề và voi ngựa, xe cộ, bảy báu làm thành những cung điện lầu gác v.v..
Vị đại thí chủ đó bố thí như thế đủ tám mươi năm rồi mà nghĩ rằng: Ta đã ban cho chúng sanh những đồ ưa thích tuỳ theo ý muốn, những chúng sanh nầy đều già suy tuổi quá tám mươi; tóc bạc mặt nhăn gần chết chẳng lâu, ta phải dùng Phật Pháp mà dạy bảo diù dắt chúng. Liền nhóm chúng sanh đó tuyên bày pháp giáo hóa, chỉ dạy lợi ích vui mừng. Ðồng thời đặng đạo Tu đà hoàn, đạo Tư đà hàm, đạo A na hàm, đạo A la Hán dứt hết cả hưũ lậu, với những thiền định sâu đều đặng tự tại, đủ tám giải thoát. Ý ông nghĩ sao ? Công đức của đại thí chủ đó đặng có nhiều chăng ?
Ngài Di Lặc bạch Phật rằng: Thế Tôn! Công đức của người đó rất nhiều vô lượng vô biên. Nếu thí vị thí chủ đó chỉ thí tất cả đồ ưa thích cho chúng sanh, công đức đã vô lượng rồi, huống làm cho đều đặng quả A la hán.
Phật bảo ngài Di Lặc: Ta nay rành rẽ nói cùng ông, người đó đem tất cả đồ vui thích thí cho sáu đường chúng sanh trong bốn trăm ức vô số thế giới, lại khiến đặng quả A la hán, công đức cuả người đó chẳng đặng bằng công đức của người thứ năm mươi kia nghe một bài kệ kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ, trăm phần, nghìn phần, muôn ức phần chẳng bằng một phần, nhẫn đến tính, đếm, thí dụ không thể biết được. A Dật Ða! Người thứ năm mươi như thế, xoay vần nghe kinh Pháp Hoa, công đức tuỳ hỷ còn vô lượng vô biên a tăng kỳ, huống là người tối sơ ở trong hội nghe kinh mà tuỳ hỷ, phước đó lại hơn vô lượng vô biên a tăng kỳ không thể sánh được.
4. A Dật Da! Nếu có người vì kinh này mà qua đến tăng phường, hoặc ngồi hoặc đứng, trong chốc lát nghe nhận, nhờ công đức đó chuyển thân sanh ra đặng voi, ngựa, xe cộ, kiệu, cáng bằng trân baỏ tốt đẹp bực thượng và ở thiên cung. Nếu có người ngồi trong chỗ giảng pháp, sau lại có người đến bèn khuyên mời ngồi nghe, hoặc chia chỗ cho ngồI, công đức của người đó chuyển thân đặng chỗ ngồi của Ðế Thích hoặc chỗ ngồi của Phạm Vương hoặc hoặc chỗ ngồi của Chuyển Luân Thánh Vương.
5. A Dật Ða! Nếu lại có người nói với người khác rằng: Có Kinh tên Pháp Hoa nên cùng nhau qua nghe, liền nhận lời bảo nhẫn đến nghe trong giây lát, công đức của người đó, chuyển thân đặng với Ðà La Ni Bồ tát, sanh chung một chỗ, căn tánh lanh lợi, có trí huệ, trăm nghìn muôn đờI, trọn chẳng ngậm câm, hơi miệng chẳng hôi, lưỡi thường không bịnh, miệng cũng không bịnh, răng chẳng dơ đen, chẳng vàng chẳng thưa, cũng chẳng thiếu rụng, chẳng so le, chẳng sếu gãy, môi chẳng trớt, cũng chẳng rút túm, chẳng thô rít, chẳng ghẻ mụt, cũng chẳng sứt hư, cũng chẳng cong vẹo, cũng dày chẳng lớn, cũng chẳng đen nám, không có các tướng đáng chê. Mũi chẳng xệp giẹp, cũng chẳng cong gãy, sắc mặt chẳng đen, hẳng hẹp dài cũng chẳng hóm gãy, không có tất cả tướng chẳng đáng ư, môi lưỡi răng nướu thảy điều nghiêm tốt, mũi lớn cao thẳng, diện mạo tròn đầy, mày cao mà dài, trán rộng bằng thẳng, tướng người đầy đủ, đời sanh ra thấy Phật, nghe pháp tin nhận lời dạy bảo.
A Dật Ða! Ngươi hãy xem khuyên nơi một người khiến qua nghe pháp mà công đức như thế, huống là một lòng nghe, nói, đọc, tụng, lại ở trong đại chúng vì người phân biệt, đúng như lời dạy mà tu hành. Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu người trong pháp hội
Ðặng nghe kinh điển này
Nhẫn đến một bài kệ
Tùy hỷ vì người nói
Xoay vần lại như thế
Ðến người thứ năm mươI
Người rốt sau đặng phước
Nay sẽ phân biệt đó
Như có đại thí chủ
Cung cấp vô lượng chúng
Ðầy đủ tám mươi năm
Tùy ý chúng ưa muốn
Thấy chúng: tướng già suy
Tóc bạc và mặt nhăn
Răng thưa, thân khô gầy
Nghĩ kia sắp phải chết
Ta nay phải nên dạy
Cho chúng đặng đạo quả
Liền vì phượng tiện nói
Pháp Niết bàn chơn thật
Ðời đều chẳng bền chắc
Như bọt bóng ánh nắng
Các ngươi đều nên phải
Mau sanh lòng nhàm lìa
Các người nghe pháp đó
Ðều đặng A La Hán
Ðầy đủ sáu thần thông
Ba minh, tám giải thoát
Người năm mươi rốt sau
Nghe một kệ tùy hỷ
Người này phước hơn người kia
Không thể thì dụ đặng
Xoay vần nghe như thế
Phước đó còn vô lượng
Huống là trong pháp hộI
Người tuỳ hỷ ban đầu
Nếu có khuyên một ngườI
Dắt đến nghe Pháp hoa
Rằng: Kinh nầy rất nhiệm mầu
Nghìn muôn kiếp khó gặp
Liền nhận lời qua nghe
Nhẫn đến nghe giây lát
Phước báu của người đó
Nay nên phân biệt đó
Ðời đời miệng không bệnh
Răng chẳng thưa vàng đen
Môi chẳng dày teo thiếu
Không có tướng đáng chê
Lưỡi chẳng khô đen ngắn
Mũi cao lớn mà ngay
Trán rộng và bằng phẳng
Mặt, mắt đều đoan nghiêm
Ðược người thấy ưa mến
Hơi miệng không hôi nhơ
Mùi thơm bông ưu bát
Thường từ trong miệng ra
Nếu cố đến Tăng phường
Muốn nghe kinh Pháp Hoa
Giây lát nghe vui mừng
Nay sẽ nói phước đó:
Sau sanh trong trời người
Ðặng voi, xe, ngưa tốt
Kiệu, cáng bằng trân báu,
Cùng ở cung điện trời.
Nếu trong chỗ giãng pháp
Khuyên người ngồi nghe kinh
Nhơn vì phước đó đặng
Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân.
Huống là một lòng nghe
Giải nói nghĩa thú kinh
Phước đó chẳng lường đặng
Kinh Diệu Pháp Liên HoaPhẩm 'Pháp-Sư Công Ðức' Thứ Mười Chín
- Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Thường Tinh Tấn đại Bồ Tát rằng: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh.
2. Nếu người ở trong chúng
Dùng tâm không sợ sệt
Nói kinh Pháp Hoa này
Ông nghe công đức đó
Người đó đặng tám trăm
Công đức thù thắng nhãn
Do dùng đây trang nghiêm
Mắt kia rất thanh tịnh.
Mắt thịt cha mẹ sanh
Thấy cả cõi tam thiên
Trong ngoài núi Di Lâu
Núi Tu Di, Thiết Vi
Và các núi rừng khác
Biển lớn nước sông ngòi
Dưới đến ngục A tỳ
Trên đến trời Hữu đảnh
Chúng sanh ở trong đó
Tất cả đều thấy rõ
Dầu chưa đặng thiên nhãn
Sức nhục nhãn như thế
3. Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có người Thiên nam tử, thiện nữ nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, đặng một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa ngục Vô gián, trên đến trời Hữu đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng: Tiếng voi, tiếng ngựa,tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc; tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cườI, tiếng nói, tiếng trai, tiếng gái, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhơn, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa, tiếng trờI, tiếng rồng, tiếng dạ xoa, tiếng càn thát bà, tiếng a tu la, tiếng ca lâu la, tiếng khẩn na la, tiếng ma hầu na dà, tiếng lưả, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỉ, tiêng Tỳ Kheo, tiếng Tỳ kheo ni, tiếng Thanh văn, tiếng Bích chi Phật, tiếng Bồ tát, tiếng Phật. Nói tóm đó, trong cõi tam thiên đại thiên, tất cã trong ngoài các thứ tiếng, dầu chưa đặng thiên nhĩ của cha mẹ sanh, thảy đều nghe biết, phân biệt các tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn. Lúc có, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
- Tai cha mẹ sanh ra! Trong sạch không đục nhơ
- Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có thiên nam tử, thiện nữ nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỉ công đức dùng tỹ căn thanh tịnh đó nghe khắp cõi Tam thiên đại thiên, trên dưới trong ngoài các thứ mùi: mùi bông tu mạn na, mùi bông xà đề, mùi bông mạt lợi, mùi bông chiêm bặc, mùi bông ba la la, mùi bông sen trắng, mùi cây có bông, mùi cây có trái, mùi chiên đàn, mùi trầm thủy, mùi đa ma la hạt, mùi đa dà la, đến trăm nghìn thứ hoà lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt. Và lại rõ biết mùi chúng sanh: mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v.. mùi trai, mùi gái, mùi đồng nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao nhiêu thứ có ra, thảy đều đặng nghe rõ biết chẳng lầm. Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng nghe mùi trên các cõi trời: mùi cây ba lợi chấ đa la, cây câu bệ đà la, cùng mùi bông mạn đà la, bông đại mạn đà la, bông mạn thù sa, mùi gỗ chiên đàn, trầm thuỷ các thứ hưong bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hiệp thoảng ra mùi thơm đều nghe biết. Lại nghe mùi nơi thân của các vị trời: mùi của Thích Ðề Hoàn Nhơn lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên diệu pháp đường vì các vị trời Ðao lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân xác của cá vị trời nam, trời nử khác, thảy đều xa nghe biết. Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu đảnh cũng đều nghe biết. Và nghe mùi hương của các vị trời đốt và mùi Thanh văn, mùi Bich chi Phật, mùi Bồ Tát, mùi nơi thân các đức Phật, cũng đều xa nghe biết chỗ ở của đó. Dầu nghe biết hương ấy, nhưng nơi tỹ căn không hư không sai, nêú muốn phân biệt vì người khác nói, ghi nhớ không lầm. Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng:
- Người đó mùi thanh tịnh Ở trong thế giới này
- Lại nữa Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, đặng một nghìn hai trăm công đức. Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, không món nào là chẳng ngon. Nếu dùng phương tiện đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích. Lại các vị Thiên tử, Thiện nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tâm thâm diệu này diễn nói ngôn luân thứ đệ, thảy đều đến nghẹ Và các hàng long, long nữ,dạ xoa, dạ xoa nữ, càn thát bà, càn thát bà nữ, A tu la, A tu la nữ, ca lầu la, ca lầu la nữ, khẩn na la, khẩn na la nữ, Ma hầu la dà, Ma hâù la dà nữ, vì để nghe pháp mà đều gần gũi cung kính cúng dường. Và Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, quốc vương, vương tữ, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển luân vương, đại Chuyển luân vương, bảy báu, nghìn người con cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện rồng đến nghe pháp. Vì vị Bồ Tát này khéo nói pháp, nên hàng Bà la môn, cư sĩ, nhơn dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ tát các đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phiá đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật pháp. Lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu. Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Dù tai này thường nghe
Cả tiếng cõi tam thiên
Tiếng voi, ngựa, trâu, xe
Tiếng chung linh loa cổ
Tiếng cầm, sắc, không hầu
Tiếng ống tiêu, ống dịch
Tiếng ca hay thanh tịnh
Nghe đó mà chẳng ham.
Tiếng vô số giống ngườI
Nghe đều hiểu rõ đặng
Lại nghe tiếng các trời
Tiếng ca rất nhiệm mầu
Và nghe tiếng trai, gái
Tiếng đồng tử, đồng nữ
Trong núi sông hang hiểm
Tiếng ca lăng tần dà
Cọng mạng các chim thảy
Ðều nghe tiếng của nó.
Ðịa ngục các đau đớn
Các thứ tiếng độc khổ
Ngạ quỉ đói khát bức
Tiếng tìm cầu uống ăn
Các hàng a tu la
Ở nơi bên biển lớn
Lúc cùng nhau nói năng
Vang ra tiếng tăm lớn
Như thế người nói pháp
An trụ ở trong đây
Xa nghe các tiếng đó
Mà chẳng hư nhĩ căn.
Trong cõi nước mười phương
Cầm thú kêu hô nhau
Người nói kinh Pháp Hoa
Ở đây đều nghe đó.
Trên các trời Phạm Thiên
Quang âm cùng Biến Tịnh
Nhẫn đến trời Hữu đảnh
Tiếng tăm của kia nói
Pháp sư ở nơi đây
Thảy đều đặng nghe đó.
Lại có các Bỗ Tát
Ðọc tụng nơi kinh pháp
Hoặc vì người khác nói
Soạn tập giải nghiã kinh
Các tiếng tăm như thế
Thảy đều đặng nghe đó.
Các Phật đấng đại thánh
Giáo hóa hàng chúng sanh
Ở trong các đại hội
Diễn nói pháp nhiệm mầu
Người trì Pháp hoa nầy
Thảy đều đặng nghe đó.
Cõi tam thiên đại thiên
Các tiếng tăm trong ngoài
Dưới đến ngục A tỳ
Trên đến trời Hữu đảnh
Ðều nghe tiếng tăm kia
Mà chẳng hư nhĩ căn
Vì tai kia sáng lẹ
Ðều hay phân biệt biết
Người trì kinh Pháp Hoa
Dầu chưa đặng thiên nhĩ
Chỉ dùng tai sanh ra
Công đức đã như thế.
Hoặc vật thơm hoặc vật hôiCác thứ đều nghe biết.
Tu mạn na xà đề
Ða ma la, chiên đàn
Trầm thủy và mùi quế
Mùi các thứ bông trái
Và biết mùi chúng sanh
Mùi nam tử, nữ nhơn
Người nói pháp ở xa
Nghe mùi biết chỗ nào.
Ðại thế chuyển luân vương
Tiể Chuyển luân và con
Bầy tôi các cung nhơn
Nghe mùi biết chỗ nào.
Trân bửu đeo nơi thân
Cùng tạng báu trong đất
Bửu nữ của luân vương
Nghe hương biết chỗ nào
Mọi người đều nghiêm thân
Y phục và chuỗi ngọc
Các thứ hương xoa thân
Nghe mùi biết thân kia.
Các trời hoặc đi, ngồi
Dạo chơi và thần biến
Người trì Pháp Hoa này
Nghe mùi đều biết đặng.
Các cây bông trái hột
Và mùi thơm dầu tô
Người trì kinh ở đây
Ðều biết ở chỗ nào.
Các núi, chỗ sâu hiểm
Cây chiên đàn nở hoa
Chúng sanh ở trong đó
Nghe mùi đều biết đặng.
Núi Thiết vi, biển lớn
Các chúng sanh trong đất
Người trì kinh nghe mùi
Ðều biết đó ở đâu
Trai gái A tu la
Và quyến thuộc của chúng
Lúc đánh ca"I, dạo chơI
Nghe hương đều biết đặng.
Ðồng trống, chỗ hiểm trở
Sư tử, voi, hùm, sói
Bò rừng, trâu nước thảy
Nghe hương biết chỗ ở.
Nếu có người nghén chửa
Chưa rõ trai hay gái
Không phi căn và phi nhơn
Nghe mùi đều biết đặng.
Do vì sức nghe mùi
Biết người mới nghén chửa
Thành tựa hay chẳng thành
An vui đẻ con phước
Do vì sức nghe mùi
Biết tâm niệm trai, gái
Lòng nhiễm dục ngu, hờn
Cũng biết người tu hành
Các phục tàng trong đất
Vàng, bạc, các trân bửu
Ðồ đồng chỗ đựng chứa
Nghe mùi đều biết được
Các thứ chuỗi ngọc báu
Không ai biết giá mấy
Nghe mùi biết mắc rẻ
Chỗ sản xuất ở đâu.
Các thứ hoa trên trời
Mạn đà, Mạn thù sa
Cây Ba-lợi-chấtđa
Nghe mùi đều biết được.
Các cung điện trên trờI
Thượng, trung, hạ sai khác
Các hoa báu trang nghiêm
Nghe hương đều biết được.
Thắng điện vườn rừng trờI
Các nhà diệu pháp đường
Ở trong đó vui chơi
Nghe mùi đều biết được.
Các trời hoặc nghe pháp
Hoặc lúc hưởng ngũ-dục
Lại, qua, đi, ngồI, nằm
Nghe mùi đều biết được.
Thiên nữ mặc y phục
Hoa hương tốt tranh nghiêm
Lúc quanh khắp dạo chơi
Nghe mùi đều biết được.
Lần lựa lên như thế
Nhẫn đến trời Phạm thế
Nhập thiền cùng xuất thiền
Nghe mùi đều biết được.
Trời Quang-âm Biến tịnh
Nhẫn đến nơi Hữu đảnh
Mới sanh và lui chết
Nghe hương đều biết được.
Các hàng Tỳ Kheo chúng
Nơi pháp thường tinh tấn
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Và đọc tụng kinh điển
Hoặc ở dưới rừng cây
Chuyên ròng mà ngồi thiền
Người trì kinh nghe mùi
Ðều biết ở tại đâu.
Bồ-tát chí bền chắc
Ngồi thiền hoặc đọc tụng
Hoặc vì người nói pháp
Nghe mùi đều biết được.
Nơi nơi chỗ Thế Tôn
Ðược mọi người cung kính
Thương chúng mà nói pháp
Nghe mùi đều biết được.
Chúng sanh ở trước Phật
Nghe kinh đều mừng vui
Ðúng pháp mà tu hành
Nghe mùi đều biết đặng.
Dầu chưa đặng vô lậu
Pháp sanh tỷ của Bồ tát
Mà người trì kinh đây
Trước đặng tướng mũi nàỵ
Trọn không thọ vị xấu
Người đó ăn uống chi
Ðều biến thành cam lộ
Dùng tiếng hay thanh tịnh
Ở trong chúng nói pháp
Ðem các nhân duyên dụ
Dẫn dắt lòng chúng sanh
Người nghe đều vui mừng
Bày đồ cúng dường tốt
Các trờI, rồng, Dạ xoa
Cùng A tu la thảy
Ðều dùng lòng cung kính
Mà đồng đến nghe pháp
Người nói kinh pháp đó
Nếu muốn dùng tiếng mầu
Khắp cùng cõi Tam thiên
Tuỳ ý liền được đến
Ðại, tiểu Chuyển luân vương
Và nghìn con quyến thuộc
Chắp tay lòng cung kính
Thường đến nghe thọ pháp
Các trời, rồng, Dạ xoa
La sát, Tỳ xá xà
Cũng dùng lòng vui mừng
Thường ưa đến cúng dường
Phạm thiên vương, Ma vương,
Tự tại, đại tự tại
Các hcúng trời như thế
Thường đến chỗ người đó
Các Phật cùng đệ tử
Nghe người nói tiếng pháp
Thương nhớ giữ gìn cho
Hoặc lúc vì hiện thân.
9. Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chépđặng tám trăm thân công đức, đặng thân thanh tịnh như lưu ly sạch chúng sanh ưa thấỵ Vì thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cõi Tam thiên đại thiên, lúc sanh lúc chết, trên dướI, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v.v.. đều hiện rõ trong đó. Và núi Thiết vi, núi Ðại Thiết vi, núi Di lâu, núi Ðại Di lâu ..v.v.. các núi cùng chúng sanh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A tỳ, trân đến trời Hữu đảnh cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân. Bấy giờ, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng.
10. Nếu người trì Pháp Hoa
Thân thể rất thanh tịnh
Như lưu ly sạch kia
Chúng sanh đều ưa thấỵ
Lại như gương sáng sạch
Ðều thấy các sắc tượng
Bồ tát nơi tịnh thân
Thấy cả vật trong đời
Chỉ riêng mình thấy rõ
Người khác không thấy được.
Trong cõi nước Tam thiên
Tất cả các chúng sanh
TrờI, ngườI, A tu la
Ðiạ ngục, quỉ, súc sanh
Các sắc tượng như thế
Ðều hiện rõ trong thân.
Cung điện của các trờI
Nhẫn đến trời Hữu đảnh
Núi Thiết vi, Di lâu
Núi Ma ha Di lâu
Các biển nước lớn thảy
Ðều hiện ở trong thân
Các Phật cùng Thanh văn
Phật tử Bồ tát thảy
Hoặc riêng, hoặc tại chúng
Nói pháp thảy dều hiện
Dầu chưa đặng diệu thân
Pháp tánh sạch các lậu
Dùng thân thanh tịnh thường
Tất cả hiện trong đó
11. Lại nữa Thường Tinh Tấn! Sau khi Ðức Như Lai diệt độ, nếu có người thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thời đặng một nghìn hai trăm ý công đức. Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ, một câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồI, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều thiệt tướng chẳng trái nhau. Nếu nói kinh sách trong đờI, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v. .. đều thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh trong cõi Tam thiên đại thiên, lòng nghĩ, tưởng, lòng động tác, lòng hí luận, thảy đều biết đó. Dầu chưa đặng trí huệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh như thế người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì là chẳng chơn thiệt, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói.
12. Bấy giờ Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng:
Ý người đó thanh tịnh
Sáng lanh không đục nhơ
Dùng ý căn tốt đó
Biết pháp: thượng, trung, hạ
Nhẫn đến nghe một kệ
Thông đạt vô lượng nghĩa
Thứ đệ nói đúng pháp
Tháng, bốn tháng, đến năm.
Trong ngoài của cõi này
Hoặc trời rồng và người
Dạ xoa, quỉ, thần thảy
Kia ở trong sáu đường
Nghĩ tưởng bao nhiêu đều
Phước báo trì Pháp Hoa
Ðồng thời thảy đều biết
Vô số Phật mười phương
Trăm phước tướng tranh nghiêm
Vì chúng sanh nói pháp
Ðều nghe hay thọ trì
Suy gẫm vô lượng nghĩa
Nói pháp cũng vô lượng
Sau trước chẳng quên lộn
Bởi thọ trì Pháp Hoa
Trọn biết các pháp tướng
Theo nghĩa rõ thứ đệ
Suốt danh tự ngữ ngôn
Như chỗ biết diễn nói
Người đó có nói ra
Là pháp của Phật trước
Vì diển nói pháp này
Ở trong chúng không sợ
Người trì kinh Pháp Hoa
Ý căn tịnh như thế
Dầu chưa đặng vô lượng
Trước có tướng dường ấy.
Người đó trì kinh này
An trụ bực hi hữu
Ðược tất cả chúng sanh
Vui mừng mà mến kính
Hay dùng nghìn muôn ức
Lời lẽ rất hay khéo
Phân biệt mà nói pháp
Bởi trì kinh Pháp Hoa.
Kinh Diệu Pháp Liên HoaPhẩm 'Thường Bất Khinh Bồ Tát' Thứ Hai Mươi
- Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Ðắc Ðại Thế đại Bồ Tát rằng: Ông nay nên biết! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà du nào thọ trì kinh Pháp hoa này đặng công đức như trước đã nói, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cùng ý chí thanh tịnh, như có người nói thô ác mắng nhiếc che bai, mắc tội báo lớn cũng như trước đã nói
- Ðắc Ðại Thế! Về thuở xưa quá vô lượng vô biên bất khả tư nghị, vô số kiếp, có Phật là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn. Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Ðại Thành. Ðức Oai Âm Vương Phật trong đời đó vì hàng trời, người, a tu la mà nói pháp, vì người cầu Thanh văn mà nói pháp, Tứ Ðế, thoát khỏi sanh già, bịnh, chết, rố ráo Niết bàn; vì người cầu Bích chi Phật mà nói pháp mười hai nhơn duyên; vì các Bồ Tát nhơn vô thượng chánh đẳng chánh giác mà nói pháp ba la mật rốt ráo trí huệ của Phật. Ðắc Ðại Thế! Ðức Oai Âm Vương Phật đó sống lâu bốn mươi vạn ức na do tha hằng hà sa kiếp; chánh pháp trụ ở đời kiếp số như vi trần trong một Diêm Phù Ðề; tượng pháp trụ ở đời kiếp số như số vi trần trong bốn châu thiên hạ. Ðức Phật đó lợi ích chúng sanh, vậy sau mới diệt độ. Sau khi chánh pháp tượng pháp diệt hết, trong cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn, cứ thứ lớp như thế có hai muôn ức đức Phật đều đồng một hiệu.
- Ðức Oai Âm Vương Như Lai, đầu hết diệt độ rồI, sau lúc chánh pháp đã diệt trong đời tượng pháp những Tỳ kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ, có vị Bồ Tát Tỳ kheo tên là Thường Bất Kính. Ðắc Ðại Thế! Vì cớ gì tên là Thường Bất Kính ? Vì vị Tỳ kheo đó phàm khi ngó thấy hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc ưu bà tắc, ưu bà di, thảy đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: Tôi rất kính quí ngài chẳng dám khing mạn. Vì sao ? Vì qúi ngài đều tu hành đạo Bồ tát sẽ đặng làm Phật. Mà vị Tỳ kheo đó chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hàng tứ chúng, cũng cố qua lễ lạy ngợi khen mà nói rằng: Tôi chẳng dám khinh quí ngài, qúi ngài đều sẽ làm Phật. Trong hàng tứ chúng có người lòng bất tịnh sanh giận hờn, buông lời mắng nhiếc rằng: Ông Vô Trí Tỳ Kheo này từ đâu đến đây tự nói ta chẳng khinh ngài, mà tự thọ ký cho chúng ta sẽ đặng làm Phật, chúng ta chẳng dùng lời thọ ký hư dối như thế. Trải qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc chẳng sanh lòng giận hờn, thường nói: Ngài sẽ làm Phật. Lúc nói lời đó, chúng nhơn hoặc lấy gậy cây ngói đá để đánh ném. Ông liền chạy tránh đứng xa mà vẩn to tiếng xướng rằng: Ta chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều sẽ thành Phật. Bởi ông thường nói lời đó, nên hàng tăng thượng mạn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di gọi ông là Thường Bất Khinh.
- Vị Tỳ kheo đó lúc sắp chết, nơi giữa hư không nghe trọn hai mươi nghìn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của đức Oai Âm Vương Phật đã nói thuở trước, nghe xong đều có thể thọ trì, liền đặng nhãn căn thanh tịnh, nhĩ, tỹ, thiệt, thân cùng ý căn thanh tịnh như trên. Ðăng sáu căn thanh tịnh đó rồi lại sống thêm hai trăm muôn ức na do tha tuổi, rộng vì người nói kinh Pháp Hoa đó. Lúc đó hàng tăng thượng mạn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, khinh tiện vị đó đặt cho tên Bất Kính nầy, thấy vị đó đặng sức thần thông lớn, đức nhạo thuyết biện sức đại thiện tịch nghe vị đó nói pháp đều tin phục tùy tùng. Vị Bồ tát đó giáo hoá nghìn muôn chúng khiến trụ trong vô lượng chánh đẳng chánh giác. Sau khi mạng chung đặng hai nghìn ức Phật đều hiệu Nhựt Nguyệt Ðăng Minh ở trong pháp hội đó nói kinh Pháp Hoa này. Do nhơn duyên đó lại gặp hai nghìn ức Phật đồng hiệu là Vân Tự Tại Ðăng Vương, ở trong pháp hội của các đức Phật đó thọ trì, đọc tụng, vì hàng tứ chúng nói kinh diển này, cho nên đặng mắt thanh tịnh thường trên đó, tai mũi lưỡi thân cùng ý các căn thanh tịnh, ở bốn chúng nói pháp lòng không sợ sệt. Ðắc Ðại Thế ? Vị Thường Bất Kính đại Bồ Tát đó cúng dường bao nhiêu đức Phật như thế, cung kính tôn trọng ngợi khen, trồng các cội lành. Lúc sau lại gặp nghìn muôn ức Phật, cũng ở trong pháp hội các đức Phật nói kinh điển này, công đức thành tựu sẽ đặng làm Phật.
- Ðắc Ðại Thế! Ý ông nghĩ sao ? Thường Bất Khinh Bồ Tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính thân ta đó. Nếu ta ở đời trước chẳng thọ trì đọc tụng kinh này, vì người khác giải nói đó, thời chẳng có thể mau đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì ta ở chổ các đức Phật thuở trước thọ trì đọc tụng kinh này vì người khác nói, nên mau đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác.
- Ðắc Ðại Thế! Thuở đó bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, do lòng giận hờn khinh tiện ta, nên trong hai trăm ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy Tăng, nghìn kiếp ở địa ngục A ty chịu khổ não lớn. Hết tội đó rồi lại gặp Thường Bất Khinh Bồ Tát giáo hoá đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðắc Ðại Thế! Ý ông muốn sao ? Bốn chúng thường khinh vị Bồ Tát thuở đó đâu phải ai xa lạ, chính là nay trong hội này bọn ông Bạt Ðà Bà La năm trăm vị Bồ Tát, bọn ông Sư Tử Nguyệt năm trăm vị Tỳ kheo, bọn ông Ni Tư Phật năm trăm ưu bà tắc, đều bất thối chuyển ở nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðắc Ðại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất có lợi ích cho các vị Bồ tát, có thể làm cho đến nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cho nên các vị đại Bồ tát sau khi Phật diệt độ phải thường thọ trì kinh này. Khi đó, đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
- Thuở quá khứ có Phật
Sức trí thần vô lượng
Dìu dắt tất cả chúng
Hàng, trời, ngườI, long, thần
Ðều chung nhau cúng dường.
Sau khi Phật diệt độ
Lúc pháp muốn dứt hết
Có một vị Bồ Tát
Tên là Thường Bất Kính
Bấy giờ hàng tứ chúng
Chấp mê nơi các pháp
Thường Bất Kính Bồ Tát
Qua đến chỗ của họ
Mà nói với đó rằng:
Ta chẳng dám khinh ngài
Qúi ngài tu đạo nghiệp
Ðều đặng làm Phật
Những người đó nghe rồi
Khinh chê thêm mắng nhiếc
Thường Bất Kính Bồ Tát
Ðều hay nhẫ thọ đó
Tội Bồ tát hết rồI.
Ðến lúc gần mạng chung
Ðặng nghe kinh pháp này
Sáu căn đều thanh tịnh
Vì Sức thần thông vậy
Sống lâu thêm nhiều tuổi
Lại vì các hạng người
Rộng nói kinh pháp này
Các chúng chấp nơi pháp
Ðều nhờ Bồ tát đó
Giáo hóa đặng thành tựu
Khiến trụ nơi Phật đạo
Thường Bất Kinh mạng chung
Gặp vô số đức Phật
Vì nói kinh này vậy
Ðặng vô lượng phước đức
Lần lần đủ công đức
Mau chứng thành Phật đạo
Thuở đó Thường Bất Kinh
Thời chính là thân ta
Bốn bộ chúng khi ấy
Những người chấp nơi pháp
Nghe Thường Bất Kinh nói:
Ngài sẽ đặng làm Phật
Do nhờ nhơn duyên đó
Mà gặp vô số Phật
Chính trong pháp hội này
Năm trăm chúng Bồ tát
Và cùng bốn bộ chúng
Thanh tín nam nữ thảy
Nay ở nơi trước ta
Nghe nói kinh Pháp Hoa đó
Ta ở trong đời trước
Khuyên những hạng người đó
Nghe thọ kinh Pháp Hoa
Là pháp bực thứ nhứt
Mở bày dạy cho người
Khiến trụ nơi Niết bàn
Ðời đời thọ trì luôn
Những kinh điển như thế
Trải ức ức muôn kiếp
Cho đến bất khả nghì
Lâu lắm mới nghe đặng
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Trải ức ức muôn kiếp
Cho đến bất khả nghì
Các đức Phật Thế Tôn
Lâu mới nói kinh này
Cho nên người tu hành
Sau khi Phật diệt độ
Nghe kinh pháp như thế
Chớ sanh lòng nghi hoặc
Nên phải chuyên một lòng
Rộng nói kinh điển này
Ðời đời gặp đặng Phật
Mau chứng thành Phật đạo
Kinh Diệu Pháp Liên HoaPhẩm 'Như Lai Thần-Lực' Thứ Hai Mươi Mốt
- Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ tát như số vi trần trong nghì thế giới từ dưới đất vọt lên đó, đều ơ trước đức Phật một lòng chắp tay, chiêm ngưỡng dunh nhan của Phật mà bạch cùng Phật rằng: Thế Tôn sau khi diệt độ, ở nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh này. Vì sao ? Chúng con cũng tự muốn đặng pháp lớn thanh tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường đó.
- Lúc đó, Thế Tôn ở trước ngài Văn Thù Sư Lợi v.v.. vô lượng trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ tát cựu trụ ở cõi Ta bà và các Tỳ Kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, TrờI, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn, phi nhơn v.v.. trước tất cảc chúng, hiện sức thần thông lớn: bày tướng lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm thế, tất cả lỗ chơn lông phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, thảy đều khắp soi cả cõi nước trong mười phương. Các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu cũng lại như thế: bày tướng lưỡi rộng dài phóng vô lượng tia sáng. Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Phật và các đức Phật dưới cây báu hiện sức thần thông mãn trăm nghìn năm như vậy sau mới hườn nhiếp tướng lưỡi, đồng thời tằng hắng cùng chung khảy móng tay, hai tiếng vang đó khắp đến cõi nước của các đức Phật trong mười phương, đất đều sáu điệu vang động, chúng sanh trong đó: TrờI, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn, phi nhơn v.v.. nhờ sức thần của Phật đều thấy trong cõi ta bà này vô lượng cô biên trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới những cây báu và thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng đức Ða Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ tát và hàng trăm nghìn muôn ức đại Bồ tát và hàng tứ chúng cung kính vây quanh đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đã thấy thế rồi đều rất vui mừng đặng chưa từng có. Tức thời hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng rằng: Khỏi đây vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số thế giới có nước tên Ta bà trong đó có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni hiện nay vì các đại Bồ tát nói kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa giáo hoá Bồ tát pháp Phật sỏ hộ niệm, các ông phải thâm tâm tùy hỷ, cũng nên lễ bái cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Các chúng sanh đó nghe tiếng nói giữa hư không rồI, chắp tay xoay về cõi Ta bà nói thế này: Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật. Dùng các món các món, hoa, hương chuỗI, ngọc, phan, lọng và các đồ trang nghiêm nơi thân, những vật tốt bằng trân báu, đều đồng vói rải vào cõi Ta bà. Các vật rải đó từ mười phương đến thí như mây nhóm, biến thành màn báu trùm khắp trên đức Phật ở trong đâỵ Bấy giờ mười phương cõi nước thông đạt không ngại như một cõi Phật.
- Khi đó, Phật bảo đại chúng bực thượng hạnh Bồ tát thảy: Thần lực của các đức Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghì như thế; nếu ta dùng thần lực đó trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô sô kiếp, vì để chúc lụy mà nói công đức của kinh này vẫn chẳng hết được. Tóm lại đó, tất cả pháp của Như lai có, tất cả thân lực tự tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất sâu của Như Lai đều tuyên bài rõ nói trong kinh này, cho nên các ông sau khi Như Lai diệt độ, phải một lòng thọ trì, đọc tụng giải nói, biên chép, đúng như lời nói mà tu hành. Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, dúnh như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc trong nhà bạch y, hoặc ở điện trường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường. Vì sao? Phải biết chỗ đó, chính là đạo tràng, các đức Phật ở đây mà đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác, các đức Phật ở đây mà chuyển pháp luân, các đức Phật ở đây mà nhập niết bàn. Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng:
- Các Phật, đấng cứu thế
Vì vui đẹp chúng sanh
Hiện vô lượng thần lực:
Tướng lưỡi đến Phạm Thiên
Thần phóng vô số quang
Vì người cầu Phật đạo
Hiện việc ít có này
Tiếng tằng hắng của Phật
Cùng tiếng khảy móng tay
Khắp vang mười phương cõi
Ðất đều sáu món động
Sau khi Phật diệt độ
Người trì được kinh này
Các Phật đều vui mừng
Hiện vô lượng thần lực
Vì chúc lụy kinh này
Khen ngợi người thọ trì
Ở trong vô lượng kiếp
Vẫn còn chăng hết được
Công đức của người đó
Vô biên vô cùng tận
Như mười phương hư không
Chẳng thể đặng ngằn mé
Người trì được kinh này
Thời là đã thấy ta
Cũng thấy Phật Ða Bảo
Và các Phật phân thân
Lại thấy ta ngày nay
Giáo hóa các Bồ tát
Người trì được kinh này
Khiến ta và phân thân
Phật đa bảo diệt độ
Tất cả đều vui mừng
Mười phương Phật hiện tại
Cùnh quá khứ vị lai
Cũng thấy cũng cúng dường
Cũnh khiến đặng vui mừng
Các Phật ngồi đạo tràng
Pháp bí yếu đã đặng
Người trì được kinh này
Chẳng lâu cũng sẽ đặng
Người trì được kinh này
Nơi nghĩa của các pháp
Danh tự và lời lẽ
Ưa nói không cùng tận
Như gió trong hư không
Tất cả không chướng ngại
Sau khi Như Lai diệt
Biết kinh của Phật nói
Nhơn duyên và thứ đệ
Theo nghĩa nói như thật
Như ánh sáng nhựt nguyệt
Hay trừ các tối tăm
Người đó đi trong đờI
Hay dứt tối chúng sanh
Dõy vô lượng Bồ tát
Rốt ráo trụ nhứt thừa
Cho nên người có trí
Nghe công đức lợi này
Sau khi ta diệt độ
Nên thọ trì kinh này
Người đó ở Phật đạo
Quyết định không định có nghi.
Kinh Diệu Pháp Liên HoaPhẩm 'Chúc Lụy' Thứ Hai Mươi Hai
1. - Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ nơi pháp tòa đứng dậy, hiện sức thần thông lớn: dùng tay mặt xoa đảnh của vô lượng Bồ tát mà nói rằng: "Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác khó đặng này, nay đem phó chúc cho các ông, các ông nên phải một lòng lưu bố pháp này làm cho thêm nhiều rộng.
Phật ba phen xoa đảnh các đại Bồ tát như thế mà nói rằng: Ta ở trong vô lượng trong trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác khó đặng này, nay đem phó chúc cho các ông; các ông phải thọ trì, đọc tụng rộng tuyên nói pháp này cho tất cả chúng sanh đều được nghe biết".
Vì sao ? Ðức Như Lai có lòng từ bi lớn, không có tánh bỏn xẻn, cũng không sợ sệt, có thể cho chúng sanh trí huệ của Phật, trí huệ của Như Lai, trí huệ tự nhiên. Như Lai là đại thí chủ. Như Lai là đại thí chủ tất cả chúng sanh các ông cũng nên thọ học pháp của Như Lai, chớ sanh lòng bỏn xẻn. Ở đời vị lai nếu có người thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tin trí huệ của Như Lai, thời các ông phải vì đó diễn nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này khiến đều đặng nghe biết, vì muốn cho người đó đặng trí huệ cuả Phật vậy.
Nếu có chúng sanh nào chẳng tin nhận thời phải ở trong pháp sâu khác của Như Lai chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng, các ông nếu được như thế thời là đã báo được ơn của các đức Phật.
2. - Lúc đó, các vị đại Bồ tát nghe Phật nói thế rồi, đều rất vui mừng khắp đầy nơi thân càng thêm cung kính, nghiêng mình cúi đầu chắp tay hướng Phật, đồng lên tiếng bạch rằng: "Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vưng làm đầy đủ, kính xin Thế-Tôn chớ có lo".
Các chúng đại Bồ-tát ba phen như thế, đều lên tiếng bạch rằng: "Như lời Thế-Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, kính xin đức Thế-Tôn chớ có lo".
Khi đó đức Thích Ca Mâu Ni Phật khiến các đức Phật phân thân ở mười phương đến, đều trở về bổn độ mà nói rằng: "Các Phật đều về yên chỗ, tháp của Phật Ða Bảo được hoàn như cũ.
3. - Phật nói lờ đó rồi, vô lượng các đức Phật phân thân ở mười phương ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu, và Phật Ða Bảo, cùng vô biên vô số đại chúng Bồ tát, bực thượng hạnh thảy, ngài Xá Lợi Phất v.v.. bốn chúng hàng Thanh Văn và tất cả trong đời: Trời, người, A tu la v.v..., nghe Phật nói rồi đều rất vui mừng.
1. - Lúc bấy giờ, ngài Tú Vương Hoa Bồ tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ tát dạo đi nơi cõi Ta Bà như thế nào ? Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ đó, có bao nhiêu nghì muôn ức na do tha hạnh khổ khó làm? Hay thay Thế Tôn! Nguyện giải, nói cho một ít, các hành Trời, Rồng, Thần, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu La, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la đà, nhơn, cùng phi nhơn v.v.., và các vị Bồ tát ở các nước khác đến cùng chúng Thanh văn đây nghe đều vui mừng".
2. - Lúc đó, Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát: "Về thuở quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp trước, có Phật hiệu Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Phật đó có tám mươi ức đại Bồ Tát, bảy mươi hai hằng hà sa chúng đại Thanh văn. Phật sống lâu bốn muôn hai nghìn kiếp, Bồ tát sống lâu cũng bằng Phật. Nước đó không có người nữ, điạ ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a tu la v.v...và với các khổ nạn. Ðất bằng như bàn tay, chất lưu ly làm thành, cây báu trang nghiêm, màn báu trùm lên, thòng các phan báu đẹp, bình báu lò hương, khắp cùng cả nước, bảy món báu làm đài, một cây có một đài, cây đó cách đài đều một lằn tên. Các cây báu đó đều có Bồ tát, Thanh văn ngồi ở dưới. Trên các đài báu đều có trăm ức chư thiên trổi kỹ nhạc trời, ca khen đức Phật để làm việc cúng dường.
3. - Bấy giờ, đức Phật đó vì ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát, cùng chúng Bồ tát và chúng Thanh văn nói kinh Pháp Hoa.
Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát đó ưa tu tập khổ hạnh, ở trong pháp hội, của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mãn một muôn hai nghìn năm đặng hiện nhứt thiết sắc thân tam muộị. Ðặng tam muội đó rồi lòng rất vui mừng, liền nghỉ rằng: "Ta đặng 'hiện nhứt thiết sắc thân tam muội' này đều là do sức đặng nghe kinh Pháp Hoa, ta nay nên cúng dường Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật và kinh Pháp Hoa".
Tức thời nhập tam muội đó, ở giữa hư không rưới hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, cùng bột kiên hắc chiên đàn đầy trong hư không như mây mà rưới xuống. Lại rưới hương hải thử ngạn chiên đàn, sáu thù hương này giá trị cõi Ta bà để cúng dường Phật.
Cúng dường như thế đó rồi, từ tam muội dậy mà tự nghĩ rằng: "Ta dầu dùng thần lực cúng dường nơi Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường". Liền uống các chất thơm; chiên đàn, huân lục, đâu lâu bà, tất lực ca, trầm thủy giao hương; lại uống dầu thơm các thứ bông chiên bặc v.v.. mãn một nghìn hai trăm năm, rồi lấy dầu thơm xoa thân, ở trước đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật dùng y báu cõi trời mà tự quấn thân, rưới các thứ dầu thơm, dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân.
Ánh sáng khắp soi cả tám mươi ức hằng hà sa thế giới, các đức Phật trong đó đồng thời khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ðó là chơn thiệt tinh tấn gọi là chơn pháp cúng dường Như Laị Nếu dùng hoa hương chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan, lọng, bằng lụa cõi trời và hương hải thử ngạn chiên đàn, dùng các món vật cúng dường như thế đều chẳng bằng được.
Giả sử quốc thành thê tử bố thí cũng chẳng bằng. Thiện nam tử! Ðó gọi là món thí thứ nhứt, ở trong các món thí rất tôn rất thượng, bởi dùng pháp cúng dường các đức Như Lai vậy, các đức Phật nói lời đó rồi yên lặng. Thân của Bồ tát lửa cháy một nghìn hai trăm năm, qua sau lúc đó thân Bồ tát mới hết.
4. - Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát, làm việc pháp cúng dường như thế xong, sau khi mạng chung, lại sanh trong nước của Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật, ở nơi nhà vua Tịch Ðức bỗng nhiên ngồi xếp bằng hoá sanh ra, liền vì vua cha mà nói kệ rằng:
- Ðại vương nay nên biết!
Tôi kinh hành chốn kia
Tức thời đặng nhứt thiết
Hiện chư thân tam muội
Siêng tu rất tinh thân
Bỏ thân thể đáng yêu
Cúng dường đức Thế Tôn
Ðể cầu huệ vô thượng.
Nói kệ đó rồi thưa vua cha rằng: "Ðức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật nay vẫn hiện còn, tôi trước cúng dường Phật xong, đặng 'giải nhứt thiết chúng sanh nhữ ngôn đà a ni' lại nghe kinh Pháp Hoa này tám trăm nghìn muôn ức na do tha, chân ca la, tần bà la, a súc bà, các bài kệ. Ðại Vương! Tôi nay lại nên cúng dường đức Phật đó. Thưa xong, liền ngồi đài bảy báu, bay lên hư không, cao bằng ảy cây đa la, qua đến chỗ Phật đầu quay mặt lạy chun, chắp tay nói kệ khen rằng:
Dung nhan rất đẹp lạ
Ánh sáng soi mười phương
Con vừa từng cúng dường
Nay lại về thân thấy .
Bấy giờ, đức Ðức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát rằng: "Thiện nam tử! Giờ ta nhập Niết bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến, ông nên sắp đặp giường tòa. Ta trong đêm nay sẽ nhập Niết bàn".
Phật lại bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát rằng: "Thiện nam tử! Ta đem Phật pháp giao phó cho ông, và các Bồ tát đại đệ tử cùng pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng đem cõi thất bảo tam thiên đại thiên, các cây báu đài báu và hàng chư thiên cung cấp hầu hạ đều giao phó cho ông.
Sau khi ta diệt độ có bao nhiêu xá lợi cũng phó chúc cho ông, nên làm cho lưu bố rộng bày các việc cúng dường, nên xây bao nhiêu nghìn tháp".
Ðức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát như thế rồi, vào khoảng cuối đêm nhập Niết bàn.
6. - Lúc đó, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát thấy Phật diệt độ buồn cảm sầu khổ, luyến mộ nơi Phật, liền dùng hải thử ngạn chiên đàn làm giàn để cúng dường thân Phật mà thiêu đó.
Sau khi lửa tắt, thâu lấy xá lợi đựng trong tám muôn bốn nghìn bình báu, để xây tám muôn bốn nghìn táp, cao ba thế giớI, chưng dọn trang nghiêm thòng các phan lọng treo các linh báu.
Bấy giờ ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát lại tự nghĩ rằng: "Ta dầu làm việc cúng dường đó lòng còn chưa đủ, ta nay lại nên cúng dường xá lợi". Liền nói với các Bồ tát đại đệ tử và trời, rồng, dạ xoa v.v..., tất cả đại chúng rằng: "Các ông phải một lòng ghi nhớ, tôi nay cúng dường xá lợi của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật". Nói xong liền ở trước tám muôn bốn nghìn tháp đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm, mãn bảy muôn hai nghìn năm để cúng dường. Khiến vô số chúng cầu Thanh Văn, vô lượng vô số người phát tâm vô lượng chánh đẳng cháng giác, đều làm cho trụ trong "Hiện nhứt-thiết-sắc-thân tam muội".
Lúc đó, các Bồ tát, trời, người, A tu la v.v.., thấy ngài không có tay bèn sầu khổ buồn thương mà nói rằng: "Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát này là thầy chúng ta, giáo hoá chúng ta, mà nay đốt tay, thân chẳng đầy đủ. Lúc ấy, Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát ở trong đại chúng lập lời thề rằng: "Tôi bỏ hai tay ắt sẽ đặng thân sắc vàng của Phật, nếu thiệt không dối, thời khiến hai tay tôi hoàn phục, như cũ". Nói lời thề xong hai tay tự nhiên hoàn phục, đó là do phước đức trí huệ thuần hậu của Bồ tát cảm nên.
Ðương lúc đó cõi tam htiên đại thiên thế giới sáu điệu vang động, trời rưới hỏa báu, tất cả người, trời đặng việc chưa từng có.
7. - Ðức Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ tát: "Ý ông nghĩ sao ? Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát đâu phải người nào lạ, chính là Dược Vương Bồ tát đó. Ông ấy bỏ thân bố thí số nhiều vô lượng trăm nghìn muôn ức na do tha như thế. Tú Vương Hoa! Nếu người phát tâm muốn đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, có thể đốt một ngón tay nhẫn đến một ngón chưn để cúng dường pháp của Phật, hơn đem quốc thành, thê tử và cõi tam đại tam thiên: núi, rừng, sông, ao, các vật trân báu mà cúng dường.
Nếu lại có người đem bảy báu đầy cả cõi tam đại tam thiên cúng dường nơi Phật, cùng đại Bồ tát, Duyên giác và A la hán, công đức của người đó đặng, chẳng bằng người thọ trì kinh Pháp Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn câu, phước của người này rất nhiều .
8. - Tú Vương Hoa! Thí dụ trong các dòng nước: sông, ngòi, kinh, rạch, thời biển là lớn nhất; kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh của đức Như Lai nói rất là sâu lớn.
Lại như trong các núi non: thổ sơn, hắc sơn, núi tiểu Thiết vi, núi đại Thiết vi cùng núi báu thời núi Diệu-cao bực nhứt, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh rất lớn là bực thượng.
Lại như trong các ngôi sao, mặt trăng là bực nhất, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong nghìn muôn ức các kinh pháp là sáng.
Lại như mặt trời hay trừ các chỗ tối tăm, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, hay phá tất cả sự tối bất tiện.
Lại như trong các vua nhỏ, vua Chuyển Luân Thánh Vương rất là bực nhất, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh là bực tôn kính hơn cả.
Lại như Ðế Thích là vua trong ba mươi cõi trời, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, là vua trong các kinh. Lại như trời Ðại Phạm Thiên Vương là cha tất cả chúng sanh, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, là cha tất cả hiền thánh: bực hữu học, vô học cùng hàng pháp lòng Bồ đề.
Lại như trong tất cả các phàm phu thời bực Dự lưu, Nhứt lai, Bất lai, Vô sanh, Duyên giác, là bực nhứt, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, tất cả Như Lai nói, hoặc Bồ tát, hoặc Thanh Văn nói trong các kinh pháp là bực nhứt hơn cả, có người thọ trì được kinh điển này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sanh cũng là bực nhứt.
Trong tất cả Thanh Văn cùng Duyên giác, Bồ tát là bực nhất, kinh này cũng lại như thế, trong tất cả các kinh pháp la bực nhất.
Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng như thế, là vua của các kinh.
9. - Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh, kinh này có thể làm cho tất cả chúng sanh xa rời các khổ não, kinh này có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh, đầy mãn chỗ mong cầu của chúng, như ao nước trong mát có thể đầy đủ cho những người khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồng đặng y phục, như người buôn đặng chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp ghe, như người bệnh gặp thầy thuốc, như tối đặng đèn, như nghèo đặng của báu, như dân gặp vua, như khách buôn đặng biển, như đuốc trừ tối . Kinh Pháp Hoa này có thể làm cho chúng sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể mở sự trăn trói của tất cả sanh tử.
Nếu người nghe đặng kinh Pháp Hoa này, hoặc chép hoặc bảo người chép, đặng công đức, dùng trí huệ cuả Phật tính lường nhiều ít chẳng thể đặng ngằn mé đó. Nếu chép kinh sách này, dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan, lọng, y phục, các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm: đèn dầu chiêm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư ca, đèn dầu na bà ma lợi đem cúng dường, đặng công đức cũng là vô lượng.
10. - Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe phẩm "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này cũng đặng vô lượng vô biên công đức.
Nếu có người nữ nghe phẩm "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này mà có thể thọ trì, thời sau khi dứt báo thân đàn bà đó không còn thọ lại nữa.
Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe kinh điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở đây chết liền qua cõi An Lạc, chỗ trụ xứ của đức A Di Ðà Phật, mà sanh trên tòa báu trong hoa sen.
Chẳng còn bị lòng tham dục làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng giận dỗi, ngu si làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng kiêu mạn ganh ghét các tánh nhơ làm khổ, đặng thần thông vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát, đặng pháp nhẫn đó thời nhãn căn thanh tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh đó thấy bảy trăm muôn hai nghìn ức na do tha hằng hà sa các đức Phật Như Lai.
Bấy giờ, các đức Phật đồng nói khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp hội của đức Thích Ca Mâu Ni Phật mà thọ trì, đọc tụng, suy gẫm kinh này vì người khác nói, ông đặng công đức vô lượng vô biên, lửa chẳng đốt đặng, nước chẳng trôi đặng, công đức của ông, nghìn Phật nói chung cũng chẳng thể hết đặng. Ông nay có thể phá giặc ma, hoại quân sanh tử, các oán địch khác thảy đều trừ diệt. Thiện nam tử! Trăm nghìn các đức Phật dụng sức thần thông đồng chung thủ hộ ông, tất cả trời người trong đời không ai bằng ông. Chỉ trừ các đức Như Lai, bao nhiêu thiền định trí huệ cuả các Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đế Bồ tát không có ai bằng ông.
11. - Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này mà tùy hỷ khen ngợi, thời người đó trong thời hiện tại trong miệng thường thoảng ra mùi thơm hoa sen xanh, trong lỗ chưn lông nơi thân, thường thoảng ra mùi thơm ngưu đầu chiên đàn, đặng công đức như đã nói ở trên.
Tú Vương Hoa! Vì thế ta đem phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này chúc lũy cho ông. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ phải tuyên nói lưu bố rộng truyền ở nơi cõi Diêm Phù đề, chớ để dứt mất. Chớ cho hàng ác ma, dân ma, các trờI, Rồng, Dạ xoa, Cưu bàn trà, v..v.. phá khuấy đặng.
Tú Vương Hoa! Ông phải dùng sức thần thông giữ gìn kinh nàỵ Vì sao ? Vì kinh này là món lương dược của người bịnh của cõi Diêm phù; nếu người có bịnh đặng nghe kinh này bịnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.
Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, phải dùng hoa sen xanh đựng đầy hương hột rải trên người đó. Rải xong nghĩ rằng: "Người này chẳng bao lâu quyết sẽ lấy cỏ trải ngồi nơi đạo tràng, phá các quân ma, sẽ thổi ốc pháp, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh, già, bịnh, tử.
Cho nên người cầu Phật đạo thấy có người thọ trì kinh điển này, nên phải sanh lòng cung kính như thế.
12. - Lúc đức Phật nói phẩm "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này, có tám muôn bốn nghìn Bồ tát đặng pháp "Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn đà la ni".
Ðức Ða Bữu Như Lai ỏ trong tháp báu khen ngài Tú Vương Hoa Bồ tát rằng: "Hay thay! Hay thay! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu bất khả tư nghì công đức mới có thể hỏi đức Thích Ca Mâu Ni Phật việc như thế, làm vô lượng lợi ích cho tất cả chúng sanh".
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
KINH
Diệu Pháp Liên Hoa
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dịch từ Hoa văn sang tiếng Việt
24. Diệu-Âm Bồ-Tát phẩm |
25. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Phổ-Môn phẩm |
26. Ðà-La-Ni phẩm |
27. Diệu-Trang-Nghiêm-Vương bổn-sự phẩm |
28. Phổ-Hiền Bồ-Tát khuyến-phát phẩm |
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Quyển Thứ Bảy
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch.Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Diệu Âm' Thứ Hai Mươi Bốn
- Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ nhục kế tướng đại nhơn, phóng ra ánh sáng, và phóng ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa chặn mày, soi khắp tám trăm muôn ức na do tha hằng hà sa các cõi Phật ơ phương Ðông. Qua khỏi số đó có thế giới ten Tịnh Quang Trang Nghiêm. Nước đó có Phật hiệu: Tịnh hoa tú vương Trí Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn, được vô lượng vô biên đại chúng bồ tát cung kính vây quanh, mà vì chúng nói pháp. Ánh sáng lông trắng của đức Thích Ca Mâu Ni Phật soi khắp cõi nước đó.
- Lúc đó, trong các nước Nhứt Thiết Tịnh Quang trang nghiêm có một vị Bồ tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng các cội công đức, cúng dường gần gũi vô lượng trăm nghìn muôn ức các đức Phật, mà đều đặng trọn nên trí huệ rất sâu, đặng môn Diệu Tràng Tướng tam muộI, Pháp Hoa tam muộI, Tịnh Ðức tam muộI, Tú Vương Hý tam muộI, Vô Duyên tam muộI, Trí Ấn tam muộI, Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn tam muộI, Tập Nhứt thiết công đức tam muộI, Thanh Tịnh tam muộI, Thần thông du hý tam muộI, Huệ Cự tam muộI, Trang Nghiêm Vương tam muộI, Tịnh Quang Minh tam muộI, Tịnh Tạng tam muộI, Bất Cộng tam muộI, Nhựt Triền tam muộI, v.v.. đặng trăm nghìn muôn ức hằng hà sa các đại tam muội như thế. Quang minh của đức Thích Ca Mâu Ni Phật soi đến thân vị Bồ tát đó, liền bạch cùng đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật rằng: Thế Tôn! Con phải qua đến cõi Ta bà để lạy gần gũi cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng để ra mắt ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dõng Thí Bồ tát, Tú Vương Hoa Bồ tát, Thượng Hạnh Ý Bồ tát, Trang Nghiêm Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát. Khi đó, đức Tinh Tú Hoa Vương Trí Phật bảo ngài Diệu Âm Bồ tát: Ông chớ có kinh nước Ta bà mà sanh lòng tưởng là hạ liệt. Thiện nam tử! Cõi ta bà kia cao thấp không bằng, các núi đất đá đầy dẫy sự dơ xấu, thân Phật kém nhỏ, các chúng Bồ tát thân hình cũng nhỏ, mà thân của ông cao lớn đến bốn muôn hai nghìn do tuần, thân của ta sáu trăm tám muôn do tuần. Thân của ông tốt đẹp thứ nhứt, tră nghìn muôn phước sáng rõ đẹp lạ, cho nên ông qua chớ kinh nước kia, hoặc ở nơi Phật, Bồ tát cùng cõi nước mà sanh lòng tưởng cho la hạ liệt. Ngài Diệu Âm Bồ tát bạch với Phật đó rằng: Thế Tôn! Con nay qua cõi Ta Bà đều là do sức thần thông của Như Lai, do thần thong du hý của Như Lai, do công đức trí huệ trang nghiêm của Như Lai.
- Lúc đó, Ngài Diêm Âm Bồ tát, chẳng rời tòa, thân chẳng lay động mà vào trong tam muộI, dùng sức tam muội ở nơi núi Kỳ Xà Quật, cách pháp tòa chẳng bao xa hóa làm tám muôn bốn nghìn các hoa sen báu: vàng diêm phù đàn làm cộng, bạc làm cánh, kim cang làm nhụy, chân thú ca bảo làm dài. Bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thấy hoa sen bèn bạch cùng Phật rằng: Thế Tôn! Ðây do nhơn duyêbn gì mà hiện điềm tốt này, có ngần ấy nghìn vạn hoa sen: vàng diêm phù đàn làm cộng, bạc làm cánh, kim cang làm nhụy, chân thú ca bảo làm dài ?. Khi ấy, đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Ðó là Diệu Âm Bồ tát từ cõi nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật muốn cùng tám muôn bốn nghìn Bồ tát vây quanh nà đến cõi Ta bà này, để cúng dường nghe kinh Pháp Hoa. Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Vị Bồ tát đó trồng cội làng gì, tu công đức gì mà có đặng sức đại thần thông như thế ? Tu tam muội gì ? Mong Phật vì chúng con nói danh dự của tam muội đó. Chúng con cũng muốn siêng tu hàn đó. Tu hành môn tam muội này mới thấy được sắc tướng lớn nhỏ oai nghi tấn chỉ của Bồ tát đó. Cúi mong đức Thế Tôn dùng sức thần thông khi vị Bồ tát đến khiến chúng con đặng thấy . Lúc ấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: Ðức Ða Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà hiện bày thân tướng của Bồ tát đó. Tức thời đức Ða Bảo Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử muốn thấy thân của ông.
- Bấy giờ, ngài Diệu Âm Bồ tát nơi cõi nước kia ẩn mặt, cùng với tám muôn bốnnghìn Bồ tát đồng nhau qua cõi Ta Bà, ở các nước trải qua, sáu điệu vang động, thảy đều rưới hoa sen bằng bảy báu, trăm nghìn nhạc trời chẳng trổi tự kiêu, mắt của vị Bồ tát đó như cánh hoa sen xanh rộng lớn. Giả sử hoà hiệp trăm nghìn muôn mặt trăng, diện mạo của ngài tốt đẹp lại hơn nơi đây, thân sắc vàng ròng vô lượng trăm nghìn công đức trang nghiêm, oai đức rất thạnh, ánh sáng chói rực, các tướng đầy đủ như thân Na La Diên bền chắc. Ngài vào trong đài thất bảo bay lên hư không cách đất bằng bảy cây đa lạ Các chúng Bồ tát cung kính vây quanh, mà đồng đế núi Kỳ Xà Quật, ở cõi Ta Bà này, đến rồi xuống đài thất bảo, dùng chuỗi ngọc giá trị trăm nghì, đem đến chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật, đầu mặt lễ chưn Phật dưng chuỗi ngọc lên mà bạch Phật rằng: Thế Tôn! Ðức Tịnh Tú Hoa Vương Trí Phật hỏi thăm đức Thế Tôn ít bịnh, ít khổ, đi đứng thơ thớI, sở hành an vui chăng ? Bốn đại đều đều hòa chăng ? Việc đời nhẫn được chăng? Chúng sanh dễ độ chăng? Không có người nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn chăng? Không kẻ chẳng thảo cha mẹ, chẳng kính sa môn, chẳng nhiếp năm tình chăng?. Thế Tôn Chúng sanh hàng phục được ma oán chăng? Ðức Ða Bảo Như Lai diệt độ từ lâu ở trong tháp bảy báu có đến nghe pháp chăng? Lại hỏi thăm đức Ða Bảo Như Lai: an ổn, ít khổ, kham nhẫn ở lâu đặng chăng? Thế Tôn! Nay con muốn thấy thân Ðức Ða Bảo Phật, cúi mong Thế Tôn chỉ bày cho con được thấy. Lúc đó, đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với Phật Ða Bảo rằng: Ông Diệu Âm Bồ tát này muốn đặng ra mắt Phật. Ðức Phật Ða Bảo Phật liền nói với Diệu Âm Bồ tát rằng: Hay thay! Hay thay! Ông có thể vì cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật và nghe kinh Pháp Hoa cùng ra mắt Văn Thù Sư Lợi v.v.. nên qua đến cõi này.
- Lúc bấy giờ, ngài Hoa Ðức Bồ tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Ngài Diệu Âm Bồ tát trồng cội lành gì, tu công đức gì, mà có sức thần thông nhhư thế ?. Ðức Phật bảo ngài Hoa Ðức Bồ tát: Thuở qúa khứ có Phật hiệu Vân Lôi Âm Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, cõi nước tên là Hiện Nhứt thiết thế gian, kếp tên Hỉ kiến. Diệu Âm Bồ tát ở trong một vạn hai nghìn năm, dùng mười muôn thứ kỹ nhạc cúng dường đức Vân Lôi Âm Vương Phật cùng dưng lên tám muôn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhơn duyên quả báo đó nay sanh tại nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Phật, có sức thần như thế. Ðức Phật bảo ngài Hoa Ðức Bồ tát: Thuở qúa khứ có Phật hiệu Vân Lôi Âm Như Lai Ứng cúng, Chánh biến tri, cõi nước tên la Hiện Nhứt thiết thế gian, kiếp tên là Hỉ Kiến. Diệu Âm Bồ tát ở trong một vạn hai nghìn năm, dùng mười muôn thứ kỹ nhạc cúng dường đức Vân Lôi Âm Phật cùng dưng lên tám muôn bốn ngàn cái bát bảy báụ Do nhơn duyên quả báo đó nay sanh tại nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, có sức thần như thế. Hoa Ðức! Ý ông nghĩ sao. Thuở đó, nơi chỗ đức, Diệu Âm Bồ tát cúng dường kỹ nhạc cùng dưng bát báu lên đó, đâu phải người nào lạ, chính nay là Diệu Âm đại Bồ tát đây.Hoa Ðức! Diệu Âm Bồ tát này đã từng cúng dường gần gũi vô lượng các đức Phật, từ lâu trồng cội công đức, lại gặp hằng hà sa trăm nghìn muôn ức na do tha đức Phật .
- Hoa Ðức! Ông chỉ thấy Diệu Âm Bồ tát thân hình ở tại đây,mà Bồ tát đó hiện thân các thứ thân hình, nơi nơi vì hàng chúng sanh nói kinh điển này. Hoặc
- Hoa Ðức! Diệu Âm Bồ tát này, hay cứu các chúng sanh trong cõi ta bà, Diệu Âm Bồ tát này biến hoá hiện các thân hình như thế ở tại cõi ta bà này vì chúng sanh mà nói kinh Pháp Hoa, ở nơi trí tuệ thần thôngbiến hóa không hề tổn giảm. Vị Bồ tát này dùng ngần ấy trí huệ sáng soi cõi Ta Bà, khiến tất cả chúng sanh đều đặng hiểu biết, ở trong hằng hà sa cõi nước trong mườI phương cũng lại như thế. Nếu chúng sanh đáng dùng thân hình Thanh Văn đặng độ thoát, liền hiện thân hình Thanh Văn đặng mà vì đó nói pháp. Ðáng dùng thân hình Duyên giác Văn đặng độ thoát, liền hiện thân hình Duyên giác đặng mà vì đó nói pháp. đáng dùng thân hình Thanh Văn đặng độ thoát, liền hiện thân hình Thanh Văn đặng mà vì đó nói pháp. Ðáng dùng thân hình Bồ tát đặng độ thoát, liền hiện thân hình Bồ tát đặng mà vì đó nói pháp. Ðáng dùng thân hình Phật đặng độ thoát, liền hiện thân hình Phật đặng mà vì đó nói pháp. Theo chỗ đáng độ mà vì chúng hiện các thứ thân hình như thế, nhẫn đến đáng dùng diệt độ mà đặng độ thoát liền thị hiện diệt độ. Hoa Ðức! Diệu Âm đại Bồ tát trọn nên sức đại thần thông trí huệ, việc đó như thế. Lúc đó ngài Hoa Ðức Bồ tát bạch cùng Phật rằng: Thế Tôn! Bồ tát đó trụ tam muội gì mà có thể ở các nơi biến hiện thân hình độ thoát chúng sanh như thế ? Phật bảo ngài Hoa Ðức Bồ tát: Thiện nam tử! Tam muội đó tên là Hiện nhứt thiết sắc thân. Diệu Âm Bồ tát trụ trong tam muội đó có thể nhiều ích vô lượng chúng sanh như thế.
hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Ðế Thích, hoặc hiện thân Tự Tại, hoặc hiện thân Ðại tự tại thiên, hoặc hiện thân Thiên Ðại tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ Sa môn thiên vương, hoặc hiện thân Chuyển luân Thánh Vương, hoặc hiện thân các Tiểu Vương, hoặc hiện thân Trưởng giả, hoặc hiện thân Cư sĩ, hoặc hiện thân Tể quan, hoặc hiện thân Bà la môn, hoặc hiện thân tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, hoặc hiện thân phụ nữ cuả Tể quan, hoặc hiện thân phụ nữ của Bà la môn, hoặc hiện thân đồng nam đồng nữ, hoặc hiện thân trờI, rồng, Dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, nhơn cùng phi nhơn v.v mà nói kinh naỳ.
Phẩm 'Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn' Thứ Hai Mươi Lăm
Lúc bấy giờ ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?"
Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ Tát:
"Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đưọc giải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ Tát này được như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền được chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La Sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La Sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
Nếu lại có người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy của người cầm liền gãy từnh khúc, người ấy được thoát khỏị.
Nếu quỉ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các quỉ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem pháp vô úy thí cho chúng sinh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ được thoát khỏi oán tặc này".
Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát!", vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền được thoát khỏi.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát sức oai thần to lớn như thế.
Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ly dục.
Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa lòng giận.
Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa ngu si.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có những sức uy thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sinh thường phải một lòng tưởng nhớ.
Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sinh con trai phúc đức trí tuệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sinh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phúc đức, mọi người đều kính mến.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần như thế.
Nếu có chúng sinh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, thời phúc đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sinh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng hà sa bồ tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống y phục, giường nằm thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhân đó có nhiều chăng?"
Vô Tận Ý thưa: "Bạch Thế Tôn! Rất nhiều".
Phật nói: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phúc của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận. Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát được vô lượng vô biên phúc đức lợi ích như thế."
Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn, Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta Bà như thế nào?"
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát thời Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Duyên Giác đượcc độ thoát, liền hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Phạm Vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Ðế Thích được độ thoát, liền hiện thân Ðế Thích mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự Tại-Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Ðại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Ðại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thiên Ðại Tướng Quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên Ðại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tiểu Vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Trưởng Giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng Giả mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Cư Sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư Sĩ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tể Quan được độ thoát, liền hiện thân Tể Quan mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Bà La Môn được độ thoát, liền hiện thân Bà La Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tròi, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhân cùng phi nhân được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang Thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp Kim Cang Thần mà vì đó nói pháp.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm Ðại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta Bà này đều gọi Ngài là vị "Thí Vô Úy".
Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: "Thế-Tôn! Con nay phải cúng dường Quán Thế Âm Bồ-Tát". Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: "Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này"
Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này".
Bấy giờ Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: "Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhân và phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó".
Tức thời Quán Thế Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, nhân, phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Ða Bảo.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà.
Lúc đó, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát nói kệ hỏi Phật rằng:
Thế Tôn đủ tướng tốt!Con nay lại hỏi kia
Phật Tử nhân duyên gì
Tên là Quá Thế Âm?
Ðấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô Tận Ý:
Ông nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn đức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi
Giả sử sinh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỉ, cá, rồng
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm được
Hoặc ở chót Tu Di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhật treo không
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim Cang
Do sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông
Hoặc gặp oán tặc vây
Ðều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
Ðều liền sinh lòng lành
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gãy từng đoạn
Hoặc tù cấm xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo rã được giải thoát
Nguyền rủa các thuốc độc
muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán Âm
Trở hại nơi bổn nhân
Hoặc gặp La Sát dữ
Rồng độc các loài quỉ
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá, xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền được tiêu tan cả
Chúng sinh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Ðầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện
Các loài trong đường dữ:
Ðịa ngục, quỉ, súc sanh
Sinh, già, bịnh, chết khổ
Lần đều khiến dứt hết
Chân quán thanh tịnh quán
Trí tuệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Tuệ nhật phá các tối
Hay phục tai khói lửa
Khắp soi sáng thế gian
Lòng bi ran như sấm
Ý Tứ diệu dường mây
Xối mưa pháp cam lộ
Dứt trừ lửa phiền não
Cãi kiện qua chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải Triều Âm
Tiếng hơn thế gian kia
Cho nên thường phải niệm
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bậc tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy
Ðủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phúc lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ
Bấy giờ, ngài Trì Ðịa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát đạo nghiệp tự tại, Phổ môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít".
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phẩm 'Ðà-La-Ni' Thứ Hai Mươi Sáu
1.- Lúc bấy giờ, ngài Dược-Vương Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trệch áo bày vai hữu chắp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Nếu có Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân hay thụ-trì được kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc tụng thông lẹ, hoặc biên chép quyển kinh, được bao nhiêu phúc đức ?'Phật bảo ngài Dược-Vương: 'Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân cúng-dàng tám trăm muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa các đức Phật. Ý ông nghĩ sao ? Người đó được phúc-đức có nhiều chăng ? - Thưa Thế-Tôn! rất nhiều.
Phật nói: 'Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân ở nơi kinh này có thể thụ-trì nhẫn đến một bài kệ bốn câu đọc tụng giải nghĩa, đúng như lời mà tu-hành thời công-đức rất nhiều'.
2.- Lúc đó, ngài Dược-Vương Bồ-tát bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Con nay sẽ cho người nói kinh Pháp-Hoa chú đà-la-ni để giữ-gìn đó. Liền nói chú rằng:
'An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, già lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ, chuyên đế, mục đế mục đa lý, ta lý, a vĩ ta lý, tang lý, ta lý xoa dệ, a xoa duệ, a kỳ nhị chuyên đế xa lý, đà la ni, a lư dà bà ta kỵ đá tỳ xoa nhị, nễ tỳ thế, a tiện đa la nễ lý thế, a đàn dá ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ kiết lợi diệt đế đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa nễ bà xá bà xá thâu địa, mạn đá lã, mạn đá lã xoa dạ đa, bưu lâu đá, bưu lâu đá kiêu xá lược, ác xoa lã, ác xoa dã đa dã, a bà lư, a ma nhã na đa dạ'.
Thế-Tôn! Thần chú đà-la-ni này là của sáu mươi hai ức hằng-hà-sa các đức Phật nói. Nếu có người xâm hủy vị Pháp-Sư này, thời là xâm hủy các đức Phật rồi.
Lúc đó, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật khen Dược-Vương Bồ-tát rằng: 'Hay thay! Hay thay! Dược-Vương! Ông thương xót muốn ủng-hộ vị Pháp-sư đó, nên nói chú đà-la-ni này, được nhiều lợi-ích ở nơi các chúng-sinh'.
3.- Lúc bấy giờ, ngài Dũng-Thí Bồ-tát bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! con cũng vì ủng-hộ người đọc-tụng thụ-trì kinh Pháp-Hoa mà nói chú đà-la-ni. Nếu vị Pháp-sư đó được chú đà-la-ni này, hoặc Da-Xoa, La-sát hoặc Phú-đan-na hoặc Cát-giá, hoặc Cưu-bàn-trà, hoặc Ngã-quỉ v.v... rình tìm chỗ dở của Pháp-sư không thể được tiện-lợi'. Liền ở trước Phật mà nói chú rằng:
'Toa lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lệ, a la bà đệ, niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí nỉ, vi trí nỉ, chỉ trí nỉ, niết lệ trì nỉ, niết lê trì bà để'.
Thế-Tôn! Thần-chú đà-la-ni này của hằng-hà-sa các đức Phật nói, cũng đều tùy-hỉ. Nếu có người xâm hủy vị Pháp-sư này thời là xâm hủy các đức Phật đó rồi.
4.- Bấy giờ, Tỳ-sa-môn Thiên-Vương, vì trời hộ đời bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Con cũng vì thương-tưởng chúng-sinh ủng-hộ vị Pháp-sư đó mà nói đà-la-ni này. Liền nói chú rằng: A-lê, na-lê, nâu na lê, a na lư, na lý, câu na-lý'.
Thế-Tôn! Dùng thần chú này ủng-hộ Pháp-sư, con cũng tự phải ủng hộ người trì kinh này, làm cho trong khoảng trăm-do-tuần không có các điều tai hoạn.
5.- Bấy giờ Trì-Quốc Thiên-Vương ở trong hội này cùng với nghìn muôn ức na-do-tha chúng Càn-thát-bà cung kính vây quanh đến trước chỗ Phật, chắp tay bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Con cũng dùng thần-chú đà-la-ni ủng-hộ người trì kinh Pháp-Hoa. Liền nói chú rằng:
'A dà nễ, dà nễ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đắng kỳ, thường cầu lợi, phù lâu sa nỉ, át để'.
Thế-Tôn! Thần-chú đà-la-ni này là của bốn mươi hai ức các đức Phật nói, nếu có người xâm hủy vị Pháp-sư này thời là xâm hủy các đức Phật đó rồi.
6.- Bấy giờ có những La-sát nữ: một, tên Lam-Bà, hai, tên Tỳ-Lam-Bà, ba, tên Khúc-Xỉ, bốn, tên Hoa-Xỉ, năm, tên Hắc-Xỉ, sáu, tên Ða-Phát, bảy, tên Vô-yếm-Túc, tám, tên Trì-anh-Lạc, chín, tên Cao-Ðế, mười, tên Ðoạt-Nhất-Thiết-Chúng-Sinh-Tinh-Khí. Mười vị La-sát nữ đó cùng với quỉ Tử-Mẫu, con và quyến-thuộc đều đến chỗ Phật, đồng tiếng bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Chúng con cũng muốn ủng-hộ người đọc-tụng thụ-trì kinh Pháp-Hoa, trừ sự khổ hoạn cho người đó. Nếu có kẻ rình tìm chỗ dở của Pháp-sư, thời làm cho chẳng được tiện-lợi'. Liền ở trước Phật mà nói chú rằng:
'Y đề lý, y đề dẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu hê, lâu hê, lâu hê, lâu hê, đa hê, đa hê, đa hê, đâu hê, nâu hê'.
Thà trèo lên đầu chúng con, chớ đừng não hại Pháp-sư, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc Ngã-quỉ hoặc Phú-đan-na, hoặc Cát-giá hoặc Tỳ-đà-la, hoặc Kiền-đà hoặc Ô-ma-lặc-đà, hoặc A-bạt-ma-la, hoặc Dạ-Xoa cát-giá, hoặc Nhân-cát-giá, hoặc quỉ làm bệnh nóng, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc đến bảy ngày, hoặc làm bệnh nóng luôn, hoặc hình trai, hoặc hình gái, hoặc hình đồng-nam, hoặc hình đồng-nữ, nhẫn đến trong chiêm-bao cũng lại chớ não hại'.
Liền ở nơi trước Phật mà nói kệ rằng:
Nếu chẳng thuận chú ta
Não loạn người nói pháp
Ðầu vỡ làm bảy phần
Như nhánh cây A-lê
Như tội giết cha mẹ
Cũng như họa ép dầu (15)
Cân lường khi dối người
Tội Ðiều-Ðạt phá Tăng
Kẻ Phạm Pháp-Sư đây
Sẽ mắc họa như thế.
Những La-sát nữ nói kệ đó rồi, bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Chúng con cũng sẽ tự mình ủng-hộ người thụ-trì đọc tụng tu-hành kinh này, làm cho được an-ổn, lìa các sự khổ-hoạn, tiêu các thuốc độc'.
7.- Phật bảo các La-sát nữ: 'Hay thay! Hay thay! Các người chỉ có thể ủng-hộ người thụ-trì tên kinh Pháp-Hoa phúc chẳng thể lường được rồi, huống là ủng-hộ người thụ-trì toàn-bộ cúng-dàng qưyển kinh, hoa-hương, chuỗi-ngọc, hương-bột, hương-xoa, hương-đốt, phan, lọng, kỹ nhạc, thắp các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, đèn dầu hoa Tô-na-ma, đèn dầu hoa Bà-sư-ca, đèn dầu hoa Ưu-bát-la, nghìn trăm thứ cúng-dàng như thế.
Cao-Ðế! Các người cùng quyến-thuộc phải nên ủng-hộ những Pháp-sư như thế'.
Lúc nói phẩm 'Ðà-la-ni' này, có sáu muôn tám nghìn người được vô-sinh pháp-nhẫn.
Phẩm 'Diệu-Trang-Nghiêm-Vương bổn sự' Thứ Hai Mươi Bảy
1.- Lúc bấy giờ, Phật bảo hàng đại-chúng rằng: 'Về thuở xưa, cách đây vô-lượng vô-biên bất-khả-tư-nghì a-tăng-kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Vân-Lôi-Âm Tú-Vương-Hoa-Trí-Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri. Nước đó tên Quang-Minh Trang-Nghiêm, kiếp tên Hỉ-Kiến.
Trong pháp-hội của Phật đó có vị vua tên Diệu-Trang-Nghiêm, phu nhân của vua tên Tịnh-Ðức có hai người con, một tên Tịnh-Tạng, hai tên Tịnh-Nhãn. Hai người con đó có sức thần-thông lớn, phúc-đức trí-tuệ, từ lâu tu-tập đạo-hạnh cuả Bồ-tát, những là: thí ba-la-mật, giới ba-la-mật, nhẫn-nhục ba-la-mật, tinh-tiến ba-la-mật, thuyền định ba-la-mật, trí-tuệ ba-la-mật, phương-tiện ba-la-mật, từ-bi hỷ-xả nhẫn đến ba mươi bảy phẩm trợ-đạo-pháp thảy đều rành-rẽ suốt-thấu. Lại được các môn tam-muội của Bồ-tát: Nhật-tinh-tú tam-muội, Tịnh-quang tam-muội, Tịnh-sắc tam-muội, Tịnh-chiếu-minh tam-muội, Trường-trang-nghiêm tam-muội, Ðại-uy-đức-tạng tam-muội, ở nơi các môn tam-muội này cũng đều thấu suốt.
2.- Lúc đó, đức Phật kia vì muốn dẫn dắt vua Diệu-Trang-Nghiêm cùng thương tưởng hàng chúng-sinh nên nói kinh Pháp-Hoa này.
Bấy-giờ, Tịnh-Tạng, Tịnh-Nhãn, hai người con đến chỗ của mẹ chắp tay thưa mẹ rằng: 'Mong mẹ đến nơi chỗ đức Phật Vân-Lôi-Âm Tú-Vương-Hoa-Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần-gũi cúng-dàng lễ lạy'.
Vì sao? Vì đức Phật đó ở trong tất cả chúng trời người mà nói kinh Pháp-Hoa, nên phải nghe và tin nhận.
Mẹ bảo con rằng: 'Cha con tin theo ngoại-đạo, rất ham pháp bà-la-môn, các con nên qua thưa với cha để cùng nhau đồng đi'.
Tịnh-Tạng, Tịnh-Nhãn chắp tay thưa mẹ: 'Chúng con là pháp-vương-tử mà lại sinh vào nhà tà-kiến này!'
Mẹ bảo con rằng: 'Các con nên thương tưởng cha các con, mà vì đó hiển phép thần-thông biến-hóa, nếu cha con được thấy lòng ắt thanh-tịnh, hoặc là chịu cho chúng ta qua đến chỗ Phật'.
3.- Lúc ấy, hai người con thương cha nên bay lên hư-không cao bằng bảy cây đa-la, hiện các món thần-biến. Ở trong hư-không đi, đứng, ngồi, nằm, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy trong hư-không rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, ở trong hư-không ẩn mất, bỗng nhiên hiện trên đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, hiện các món thần-biến như thế làm cho vua cha lòng thanh-tịnh tin hiểu.
Bấy giờ, cha thấy con có sức thần như thế, lòng rất vui mừng được chưa từng có, chắp tay hướng về phía con mà nói rằng: 'Thầy các con là ai, con là đệ-tử của ai?'
Hai người con thưa rằng: 'Ðại-vương! Ðức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vương-Hoa-Trí Phật kia nay đương ngồi trên pháp-tòa dưới cây bồ-đề bằng bảy báu, ở trong tất cả chúng trời người thế-gian, rộng nói kinh Pháp-Hoa, đó là thầy chúng con, con là đệ-tử'.
Cha nói với con rằng: 'Ta nay cũng muốn ra mắt thầy các con, nên cùng nhau đồng đi'. Khi đó hai người con từ trong hư-không xuống, đến chỗ của mẹ chắp tay thưa mẹ rằng: 'Phụ-vương nay đã tin hiểu, có thể kham phát được tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, con đã vì cha làm Phật-sự rồi, mong mẹ bằng lòng cho chúng con, ở nơi chỗ đức Phật kia mà xuất-gia tu-hành Phật-đạo'.
Lúc đó, hai người con muốn tuyên lại ý mình nói kệ thưa mẹ:
Mong mẹ cho các con
Xuất-gia làm Sa-môn
Các Phật rất khó gặp
Chúng con theo Phật-học
Như hoa Ưu-đàm-bát
Gặp Phật lại khó hơn
Khỏi các nạn cũng khó
Mong cho con xuất-gia.
Mẹ liền bảo con rằng: 'Cho các con xuất-gia. Vì sao? Vì Phật khó gặp vậy'.
4.- Bấy giờ, hai người con thưa cha mẹ rằng: Lành thay, cha mẹ! Xin liền qua đến chỗ đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vương-Hoa-Trí Phật để gần-gũi cúng-dàng.
Vì sao? Vì các đức Phật khó gặp được, thời kỳ gặp Phật cũng khó có.
5.- Lúc đó nơi hậu-cung của vua Diệu-Trang-Nghiêm có tám muôn bốn nghìn người thảy đều có thể kham thụ trì kinh Pháp-Hoa này. Tịnh-Nhãn Bồ-tát từ lâu đã thông đạt nơi 'Pháp-Hoa tam-muội'. Tịnh-Tạng Bồ-tát đã từ vô-lượng trăm nghìn muôn ức kiếp, thông-đạt môn 'Ly-chư-ác-thú tam-muội', vì muốn làm cho tất cả chúng-sinh lìa các đường dữ (11) vậy.
Phu nhân của vua được môn 'Chư-Phật-Tập tam-muội', hay biết được tạng-pháp bí mật của các đức Phật. Hai người con dùng sức phương-tiện khéo hóa-độ vua cha như thế, khiến cho lòng cha tin hiểu ưa mến Phật-Pháp.
6.- Bấy giờ vua Diệu-Trang-Nghiêm cùng chung với quần-thần quyến-thuộc, Tịnh-Ðức phu-nhân cùng chung với thể-nữ quyến-thuộc nơi hậu-cung, hai người con của vua, cùng chung với bốn muôn hai nghìn người đồng một lúc đi qua chỗ Phật. Ðến rồi đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, rồi đứng qua một phía.
Lúc đó đức Phật kia vì vua nói pháp, chỉ dạy làm cho được lợi-ích vui mừng. Vua rất vui đẹp.
Bấy giờ, vua Diệu-Trang-Nghiêm cùng phu-nhân mở chuỗi chân-châu giá-trị trăm nghìn đeo nơi cổ, để rải trên đức Phật, chuỗi đó ở giữa hư-không hóa thành đài báu bốn trụ, trong đài có giường báu lớn trải trăm nghìn muôn thiên-y, trên đó có đức Phật ngồi xếp bằng phóng hào-quang sáng lớn.
7.- Lúc đó vua Diệu-Trang-Nghiêm nghĩ rằng: Thân Phật tốt đẹp riêng lạ ít có, thành-tựu sắc thân vi-diệu thứ nhất.
Bấy giờ, đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vương-Hoa-Trí Phật bảo bốn-chúng rằng: 'Các người thấy vua Diệu-Trang-Nghiêm chắp tay đứng trước ta đó chăng?'
Vị vua này ở trong pháp ta làm Tỷ-khiêu siêng ròng tu-tập các món trợ Phật đạo Pháp, sẽ được làm Phật hiệu Ta-La-Thụ-Vương, nước tên Ðại-Quang, kiếp tên Ðại-Cao-Vương.
Ðức Ta-La-Thụ-Vương Phật có vô-lượng chúng Bồ-Tát và vô-lượng Thanh-văn, nước đó bằng thẳng công-đức như thế'.
8.- Vua Diệu-Trang-Nghiêm liền đem nước giao cho em, rồi cùng phu-nhân hai người con và các quyến thuộc, ở trong Phật-Pháp xuất-gia tu-hành đạo-hạnh.
Vua xuất-gia rồi trong tám muôn bốn nghìn năm thường siêng tinh-tiến tu-hành kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa; qua sau lúc đây, được môn 'Nhất-Thiết-Tịnh Công-đức Trang-Nghiêm-tam-muội'.
Liền bay lên hư-không cao bảy cây đa-la mà bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Hai người con của con đây đã làm Phật-sự dùng sức thần-thông biến-hóa, xoay tâm tà của con, làm cho con được an-trụ trong Phật-Pháp, được thấy Thế-Tôn. Hai người con này là thiện-tri-thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước lợi-ích cho con nên đến sinh vào nhà con'.
Lúc đó đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vương-Hoa-Trí Phật bảo vua Diệu-Trang-Nghiêm rằng: 'Ðúng thế! Ðúng thế! như lời ông nói, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào trồng gốc lành thời đời đời được gặp thiện-tri-thức, vị thiện-tri-thức hay làm Phật-sự, chỉ dạy cho lợi-ích vui mừng, khiến vào đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Ðại-vương nên biết! Vị thiện-tri-thức đó là nhân-duyên lớn, giáo-hóa dìu-dắt làm cho được thấy Phật phát-tâm Vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Ðại-vương! Ông thấy hai người con này chăng? Hai người con này đã từng cúng-dàng sáu mươi lăm trăn nghìn muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa các đức Phật, gần-gũi, cung-kính, nơi chỗ các đức Phật thụ-trì kinh Pháp-Hoa, thương tưởng những chúng-sinh tà-kiến làm cho trụ trong chính-kiến.
Diệu-Trang-Nghiêm-Vương liền từ trong hư-không xuống mà bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Như-Lai rất ít có do công-đức trí-tuệ nên nhục-kế trên đỉnh sáng-suốt chói rỡ. Mắt Phật dài rộng mà sắc xanh biếc, tướng lông trắng chặn mày như ngọc Kha-nguyệt, răng trắng bằng và khít thường có ánh-sáng, môi sắc đỏ đẹp như trái tần-bà'.
Lúc đó vua Diệu-Trang-Nghiêm khen ngợi Phật có vô-lượng trăm nghìn muôn ức công-đức thế rồi, ở trước Như-Lai một lòng chắp tay lạy bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! chưa từng có vậy! pháp của Như-Lai đầy đủ trọn nên bất-khả-tư-nghì công-đức vi-diệu dạy răn chỗ tu-hành an-ổn rất hay, con từ ngày nay chẳng còn lại tự theo tâm hành của mình chẳng sinh những lòng ác: kiêu-mạn, giận-hờn, tà-kiến'.
Vua thưa lời đó rồi lạy Phật mà ra.
9.- Phật bảo đại-chúng: 'Ý các ông nghĩ sao? Vua Diệu-Trang-Nghiêm đâu phải người nào lạ, nay chính là Hoa-Ðức Bồ-tát, bà Tịnh-Ðức phu-nhân nay chính là Quang-Chiếu Trang-Nghiêm-Tướng Bồ-tát hiện đương ở trước Phật. Hai người con vì thương xót vua Diệu-Trang-Nghiêm và các quyến-thuộc nên sinh vào trong cung vua, nay chính là Dược-Vương Bồ-tát cùng Dược-Thượng Bồ-tát.
Dược-Vương và Dược-Thượng Bồ-tát này thành-tựu các công-đức lớn như thế, đã ở chỗ vô-lượng trăm nghìn muôn ức, các đức Phật trồng các gốc công-đức, thành-tựu bất-khả tư-nghì những công-đức lành. Nếu có người biết danh-tự của hai vị Bồ-tát này thời tất cả trong đời, hàng trời, nhân-dân cũng nên lễ lạy.
Lúc đức Phật nói phẩm 'Diệu-Trang-Nghiêm-Vương Bản-sự' này có tám muôn bốn nghìn người xa trần-lụy, rời cấu-nhiễm, ở trong các pháp chứng được pháp nhãn-tịnh.
Phẩm 'Phổ-Hiền Bồ Tát Khuyến-Phát' Thứ Hai Mươi Tám
1.- Lúc bấy giờ, ngài Phổ-Hiền Bồ-tát dùng sức thần-thông tự-tại uy-đức danh-văn, cùng vô-lượng vô-biên bất-khả-xưng-sổ chúng đại Bồ-tát từ phương Ðông mà đến; các nước đi ngang qua khắp đều rung động, rưới hoa sen báu, trổi vô-lượng trăm nghìn muôn ức các thứ kỹ-nhạc.
Lại cùng vô-số các đại-chúng: Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân, phi-nhân v.v... vây quanh, đều hiện sức uy-đức thần-thông đến cõi Ta-bà trong núi Kỳ-xà-quật, đầu mặt lạy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đi quanh bên hữu bảy vòng, bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Con ở nơi nước của đức Bảo-uy-Ðức-Thượng-Vương Phật, xa nghe cõi Ta-Bà này nói kinh Pháp-Hoa, nên cùng với vô-lượng vô-biên trăm nghìn muôn ức chúng Bồ-tát đồng đến để nghe thụ, cúi mong đức Thế-Tôn nên vì chúng con nói đó'.
Nếu thiện-nam-tử thiện-nữ-nhân sau khi Như-Lai diệt-độ, thế nào mà có thể được kinh Pháp-Hoa này.
2.- Phật bảo Phổ-Hiền Bồ-tát rằng: 'Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như-Lai diệt-độ sẽ được kinh Pháp-Hoa này: một là được các đức Phật hộ-niệm, hai là trồng các gốc công-đức, ba là vào trong chính-định, bốn là phát lòng cứu tất cả chúng-sinh.
Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như-Lai diệt-độ quyết được kinh này.
3.- Lúc đó ngài Phổ-Hiền Bồ-tát bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác-trược nếu có người thụ-trì kinh-điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ-hoạn làm cho được an-ổn, khiến không ai được tiện-lợi rình tìm làm hại; hoặc ma, hoặc con trai của ma, hoặc con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc người bị ma dựa, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc Cưu-bàn-trà hoặc Tỳ-xá xà, hoặc Cát-giá, hoặc Phú-đan-na, hoặc Vi-đà-la v.v... những kẻ làm hại người đều chẳng được tiện-lợi.
Người đó hoặc đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, bấy giờ con cưỡi tượng-vương trắng sáu ngà cùng chúng đại Bồ-tát, đều đến chỗ người đó mà tự hiện thân ra, để cúng-dàng thủ-hộ an-ủi tâm người đó, cũng để cúng-dàng kinh Pháp-Hoa.
Người đó nếu ngồi suy nghĩ kinh này, bấy giờ con lại cưỡi tượng-vương trắng hiện ra trước người đó, người đó nếu ở trong kinh Pháp-Hoa có quên một câu một bài kệ, con sẽ dạy đó chung cùng đọc tụng, làm cho thông thuộc.
Bấy giờ, người thụ-trì đọc tụng kinh Pháp-Hoa được thấy thân con, lòng rất vui mừng lại càng tinh-tiến, do thấy thân con nên liền được tam-muội và đà-la-ni tên là 'triền-đà-la-ni' 'pháp-âm-phương-tiện đà-la-ni', được những môn đà-la-ni như thế.
4.- Thế-Tôn! nếu đời sau, sau năm trăm năm trong đời ác-trược, hàng tỷ-khiêu, tỷ-khiêu-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, người cầu tìm, người thụ-trì, người đọc tụng, người biên chép, mà muốn tu tập kinh Pháp-Hoa này, thời trong hai mươi mốt ngày, phải một lòng tinh-tiến, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cưỡi tượng trắng sáu ngà, cùng vô-lượng Bồ-tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng-sinh ưa thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi-ích vui mừng cũng lại cho chú đà-la-ni.
Ðược chú đà-la-ni này thời không có phi-nhân nào có thể phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ làm hoặc loạn. Con cũng đích thân thường hộ người đó. Cúi mong đức Thế-Tôn nghe con nói chú đà-la-ni này, liền ở trước Phật mà nói chú rằng:
'A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chiên nễ, tát bà đà la ni a bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu la bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà dà địa, đế lệ a nọa tăng già đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma địa dà lan địa, tát bà đạt mạ tu ba lợi sát đế, tát bà tát tỏa lâu đà kiêu xá lược, a nàu dà địa, tân a tỳ cát lợi địa đế'.
Thế-Tôn! Nếu có Bồ-tát nào được nghe chú đà-la-ni này, phải biết đó là sức thần-thông của Phổ-Hiền.
5.- Nếu kinh Pháp-Hoa lưu-hành trong Diêm-phù-đề có người thụ-trì, thời nên nghĩ rằng: đều là sức uy-thần của Phổ-Hiền.
Nếu có người thụ-trì đọc tụng ghi nhớ chân-chính hiểu nghĩa-thú trong kinh đúng như lời mà tu-hành, phải biết người đó tu hạnh Phổ-Hiền, ở nơi vô-lượng vô-biên các đức Phật, sâu trồng gốc lành, được các Như-Lai, lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép người này mệnh chung sẽ sinh lên trời Ðao-Lợi.
Bấy giờ, bốn muôn tám nghìn thiên-nữ trổi các kỹ-nhạc mà đến rước đó, người đó liền đội mũ bảy báu ở trong hàng thể-nữ, vui chơi khoái lạc, huống là thụ-trì đọc tụng ghi nhớ chân-chính hiểu nghĩa-thú kinh, đúng như lời mà tu-hành.
Nếu có người nào thụ-trì, đọc tụng, giải nghĩa-thú kinh, người đó khi mệnh-chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến chẳng sợ-sệt, chẳng đọa vào đường dữ, liền lên cung trời Ðâu-Suất, chỗ Di-Lặc Bồ-tát mà sinh vào trong hàng quyến-thuộc trăm nghìn muôn ức thiên nữ, đức Di-Lặc Bồ-tát có ba mươi hai tướng, chúng đại Bồ-tát cùng nhau vây quanh. Có công-đức lợi-ích như thế cho nên người trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép thụ-trì đọc tụng, ghi nhớ chân-chính đúng như lời tu-hành.
Thế-Tôn! Con nay dùng sức thần-thông giữ-gìn kinh này, sau khi Như-Lai diệt-độ, làm cho rộng lưu-bố trong Diêm-phù-đề khiến chẳng dứt mất.
6.- Lúc bấy giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật khen rằng: 'Hay thay! hay thay! Phổ-Hiền! Ông có thể hỗ-trợ, kinh này làm cho nhiều chúng-sinh an-vui lợi-ích, ông đã thành-tựu bất-khả-tư-nghì công-đức, lòng từ-bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay phát-tâm Vô-thượng chính-đẳng chính-giác, mà có thể thực hành nguyện thần-thông đó, để giữ-gìn kinh này.
Ta sẽ dùng sức thần-thông giữ-gìn người hay thụ-trì danh-hiệu Phổ-Hiền Bồ-tát.
Phổ-Hiền! Nếu có người thụ-trì, đọc tụng, ghi nhớ chân-chính tu tập biên chép kinh Pháp-Hoa này, phải biết người đó thời là thấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe kinh-điển này. Phải biết người đó cúng-dàng cho đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, phải biết người đó được Phật Ngài khen lành thay, phải biết người đó được Thích-Ca Mâu-Ni Phật lấy tay xoa đầu. Phải biết người ấy được đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, lấy y trùm cho. Người như thế chẳng còn lại ham ưa sự vui trong đời, chẳng ưa kinh sách viết chép của ngoại-đạo, cũng lại chẳng ưa gần gũi ngoại-đạo và các kẻ ác, hoặc kẻ hàng thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn, hoặc kẻ buôn bán sắc gái. Người đó tâm ý ngay thật có lòng nghĩ nhớ chân-chính có sức phúc-đức. Người đó chẳng bị ba món độc làm não hại, cũng chẳng bị tính ghen-ghét, ngã-mạn, tà-mạn, tăng-thượng-mạn làm não hại. Người đó ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh Phổ-Hiền.
7.- Phổ-Hiền! Sau khi Như-Lai diệt-độ, năm trăm năm sau, nếu có người nào thấy người thụ-trì đọc tụng kinh Pháp-Hoa phải nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ đến đạo-tràng, phá các chúng ma thành Vô-thượng chính-đẳng chính-giác, chuyển pháp-luân, đánh pháp cổ, thổi pháp-loa, rưới pháp-vũ, sẽ ngồi trên pháp-tòa sư-tử trong đại-chúng trời người.
Phổ-Hiền! Nếu ở đời sau, có người thụ-trì đọc tụng kinh-điển này, người đó chẳng còn lại ham ưa y-phục,giường nằm, những vật nuôi sống, chỗ mong cầu chẳng luống, cũng ở trong hiện đời được phúc-báo đó.
Nếu có người khinh chê đó rằng: 'Ông là người điên cuồng vậy, luống làm hạnh ấy trọn không được lợi-ích'. Tội báo như thế sẽ đời đời không mất. Nếu có người cúng-dàng khen-ngợi đó, sẽ ở trong đời này được quả-báo hiện-tại.
Nếu lại thấy người thụ-trì kinh này mà nói bày lỗi quấy của người đó, hoặc thực, hoặc chẳng thực, người này trong hiện đời mắc bệnh bạch-lại (12). Nếu khinh cười người trì kinh sẽ đời đời răng nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân cong quẹo, mắt lé, thân-thể hôi dơ, ghẻ dữ máu mủ, bụng thũng hơi ngắn, bị các bệnh nặng dữ.
Cho nên Phổ-Hiền! Nếu thấy người thụ-trì kinh-điển này phải đứng dậy xa rước, phải như kính Phật.
8.- Lúc Phật nói phẩm Phổ-Hiền Bồ-tát khuyến phát này có hằng-hà-sa vô-lượng vô-biên Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức môn 'triền-đà-la-ni', tam-thiên đại-thiên thế-giới vi-trần số các đại Bồ-tát, đủ đạo Phổ-Hiền.
Lúc Phật nói kinh này, Phổ-Hiền v.v... các vị Bồ-tát, Xá-Lợi-Phất v.v... các vị Thanh-Văn và hàng Trời, Rồng, nhân, phi-nhân v.v... tất cả đại-chúng đều rất vui thụ-trì lời Phật làm lễ mà đi.
__________________________________
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
_________________
QUY"N THỨ BẢY
________
I.- Diệu-Âm hạnh khắp, thành trước nên sau, hoằng dương kinh này, toàn nhờ công tổng trì (17), tà ma ngoại đạo theo hơi gió lánh xa, đạo chân thường lưu-thông, muôn pháp đều viên dung.
Nam-mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát Ma-ha-tát. (3 lần)
II.- Pháp-Hoa hải-hội (13) đức Phật thân tuyên, ba chu (14) chín dụ nghĩa kinh mầu, bảy cuốn gồm bao trùm hơn sáu muôn lời,xướng tụng lợi người, trời.
Nam-mô Pháp-Hoa Hải-Hội Chư Phật, Chư Ðại Bồ-tát, Chư Hiền Thánh Tăng (3 lần)
III.- Một câu nhiễm tâm-thần
Ðều giúp đến bờ kia
Nghĩ-suy ròng tu-tập
Hẳn dùng làm thuyền bè
Tùy-hỷ thấy cùng nghe
Thường làm chủ với bạn
Hoặc lấy hay là bỏ
Qua tai đều thành duyên
Hoặc thuận cùng với nghịch
Trọn nhân đây được thoát.
Nguyện này tôi giải-thoát
Y-báo cùng chính-báo
Thường tuyên kinh mầu này
Một cõi đến một trần
Ðều là vì lợi vật
Cúi mong các đức Phật
Thầm nhờ hộ trợ cho
Tất cả hàng Bồ-tát
Kín giúp sức uy-linh
Nơi nơi chưa nói kinh
Ðều vì chúng khuyến-thỉnh
Phàm chỗ có nói pháp
Ðích thân thờ cúng-dàng
Một câu cùng một kệ
Tăng tiến đạo Bồ-đề
Một sắc và một hương
Trọn không hề thối-chuyển.
IV.- Trời, A-tu-la, Dạ-xoa thảy
Ðến nghe pháp đó nên chí tâm:
Ủng-hộ Phật-Pháp khiến thường còn
Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu người nghe đến chốn này
Hoặc trên đất liền hoặc hư-không
Thường với người đời sinh lòng từ
Ngày đêm tự mình nương pháp ở
Nguyện các thế-giới thường an-ổn
Phúc trí vô-biên lợi quần sinh
Bao nhiêu tội-nghiệp thảy tiêu trừ
Xa lìa các khổ về viên-tịch.
Hằng dùng giới-hương xoa vóc sáng
Thường trì định-phục để giúp thân
Hoa mầu Bồ-đề khắp trang-nghiêm
Tùy theo chỗ ở thường an-lạc.
Nam-mô Hộ-pháp chư Tôn Bồ-tát. (3 lần)
________ CHUNG _________
THÍCH NGHĨA
(1 ) Trên đầu đức Phật, thịt đùn cao lên như hình búi tóc, 1 tướng tốt trong 32 tướng tốt của thân phật.
(2 ) Mỗi vị Phật đều có đủ 10 hiệu này, phải đủ 10 hiệu này mới phải là Phật:
1. Như-Lai: Toàn thể như như bất động, tùy duyên hóa độ mà đến trong muôn loài - đến trong
muôn loài mà vẫn như như bất động.
2. Ứng cúng: Ruộng phước vô-lượng vì lợi quần sinh nên đên thụ sự cúng dàng của chín giới.
3. Chính biến tri: Hiểu biết suốt thấu khắp tất cả pháp một cách chân chính đúng như thực.
4. Minh-hạnh-túc: Minh: trí tuệ, Hạnh: công hạnh lợi mình lợi người. Trí huệ và công hạnh đều
Hoàn bị.
5. Thiện-thệ: Khéo qua. Qua Niết-bàn nhưng vẫn thường độ sinh, nhưng vẫn không rời Niết-bàn.
6. Thế-gian-giải: Rành rẽ tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian.
7. Vô thượng sĩ: Ðấng vô thượng, không còn ai trên.
8. Ðiều ngự trượng phu: Bậc trượng phu hay điều hòa hóa độ chúng sinh nhu hòa, và hay ngự
phục hóa độ chúng sinh cang cường.
9. Thiên-nhân-sư: Thầy của tất cả trời, người v.v...
10. Phật: Ðấng vô thượng chính đẳng chính giác.
'Thế-Tôn' Hiệu chung của 10 hiệu trên. Nếu được đủ 10 đức hiệu trên thời là bậc tôn quý của thế gian và xuất thế gian.
(3 ) Kim cang: Một chất rất cứng rắn, không chi phá vỡ được.
(4 ) Hiệu chung của tất cả người xuất gia.
(5 ) Năm căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân.
(6 ) Người chủ, người dùng bùa chú thuốc độc để hại người khác.
(7 ) Ta thường gọi là mưa đá.
(8 ) Mặt trời trí tuệ, ý nói trí-tuệ sáng chói như mặt trời.
(9 ) 'Lòng bi' là lòng muốn cứu chúng sinh khỏi khổ, răn trừ các độc, như sấm vang làm khiếp vía các ma
mị. 'Ý TỪ' là muốn chúng sinh được hưởng các sự vui thỏa nên thường đem sự lợi lạc ban cho chúng sinh như mây rưới mưa đượm nhuần cỏ cây muôn vật.
(10) Lòng tham giận, ganh, v.v... làm phiền nhiễu bức rức khổ não thân tâm người như lửa đốt, Bồ-tát nói
pháp trừ những tính xấu đó làm cho thân tâm người thư-thái nát-mẻ, như rưới nước cam lồ tắt lửa.
(11) Ðịa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh.
(12) Bệnh hủi (da tróc sần sùi, tóc mày đều rụng).
(13) Hội lớn rộng rất đông như biển không thể lường biết!
(14) 1) Thuyết-pháp chu, 2) Thí-dụ chu 3) Nhân-duyên chu.
Phụ.- Tích chi Phật: có hai hạng: 1) ra đời không gặp Phật, không gặp chính pháp, nhân thấy sự biến
đổi trong đời như hoa héo lá khô, v.v... mà tự ngộ lý vô thường, dứt kiến tư hoặc, thoát ly sinh tử luân
Hồi, gọi là vị: Ðộc Giác. 2) Ra đời gặp Phật, gặp chính pháp, tu pháp 'thập nhị nhân duyên' (xem
Phẩm 'Hoá thành dụ' thứ 7, quyển thứ ba), mà chứng ngộ vô sinh, thoát ly sinh tử luân hồi gọi là vị
'Duyên Giác', 2 bậc: Ðộc Giác cùng Duyên Giác, cứ quả vị thì ngang với quả A-la-hán.
(15) Người xứ Tây Trúc ép dầu, trước dã nhỏ mè hay đău v.v... ủ cho sinh trùng rồi sau mới ép. Ép dầu tức là
sát hại nhiều trùng nên phải bị ương họa.
(16) Ðể ví dụ những việc lâu xa khó gặp khó được. Kinh nói: 'Như trong biển lớn có khúc cây bọng nổi trên
mặt nước 100 năm một lần trôi qua, 100 năm một lần trôi lại; đáy biển có một con rùa đui, 100 năm
một lần nổi lên mặt nước đón một bọng cây để chui vào. Biển rộng, cây 100 năm mới một lần trôi
qua, rùa đã mù mà 100 năm mới nổi lên 1 lần, chực chui được vào bộng cây, khó lắm!'
(17) Tức là 'Ðà-la-ni'.
Quyển 1 2 3 4 5 6 7
0 nhận xét:
Đăng nhận xét